Loading...

Hỏa xà

Thảo luận trong 'Sách, tài liệu...' bắt đầu bởi admin, 29/5/18.

  1. admin

    admin Administrator Thành viên BQT

    Tham gia ngày:
    26/11/16
    Bài viết:
    142
    Đã được thích:
    30
    Điểm thành tích:
    28
    Tâm nhãn Thiên nhãn và Huệ nhãn


    Người tu đạo trước giờ không phân biệt được chính tà, tranh cãi cao thấp tông môn cũng bởi không đắc được "chân thần thông". Không mở được chân chính Thiên nhãn, lại tu tập không đến nơi đến chốn mà ngụy tạo kinh sách, dẫn tới mối họa lớn sau này. Quán viết bài này để phân biệt rõ ràng cái mớ bòng bong suốt hơn hai nghìn năm qua.


    Hiện nay trên đời có rất nhiều người đã mở được nhãn, nhưng đó là tâm nhãn, không phải thiên nhãn. Thế nhưng đa số đều cho đó là Thiên nhãn mà Phật thuyết xưa, hiểu nhầm hoàn toàn.

    Tâm nhãn và Thiên nhãn khai mở ứng hai vị trí khác nhau. Tâm nhãn khi ban đầu khai đều có ấn chứng là ánh sáng chói lòa nơi mi tâm ấn đường. Phật kinh Tăng Chi Bộ gọi là ánh sáng nội tâm, đem dẫn ra một số ấn chứng "thiên nhãn" như thấy ánh sáng, cảnh sâc, chúng sinh của thiên đó, giao tiếp nói chuyện, biết được sinh tử vị lai của họ. Tất cả những điều này là Tâm nhãn, không phải Thiên nhãn chân chính mà Thích Ca Mâu Ni đắc. Rõ ràng Thiên nhãn là thần thông của giải thoát, vậy không thể nào dễ dàng chứng đắc như người bây giờ vẫn tưởng.


    Tâm nhãn khi khai mở thì tùy căn cơ tu luyện mà có thể đạt một hoặc tất cả khả năng sau:

    - Nhìn xuyên đồ vật, sông núi, nhìn vào trong cơ thể người khác. Nhãn này rất phù hợp cho nghề y và phong thủy, tìm mộ.

    - Biết được các việc quá khứ và tương lai

    - Nhìn thấu hết mười tám tầng địa ngục cùng chư thiên trong vũ trụ, tam thiên đại thiên thế giới.

    - Có thể thông qua tâm nhãn tới bất cứ đâu trong vũ trụ, đến các cõi vô hình mà sách vở nói đến, giao tiếp chúng sinh nơi đó, thấy rõ sinh diệt của cõi đó. Tâm nhãn chính là kết nối với Thần của ta, trong mơ Thần du hành tam giới thì dùng nhãn có thể làm vậy.

    - Một số người do tiền kiếp đắc cao thì có thể soi thấu hết qui tắc diễn tiến sinh diệt của vũ trụ, soi thấu cả các cõi bên ngoài vũ trụ, các trạng thái vận hành của đại đạo. Linh Sơn Lôi Âm Tự, Hoạt Bát Bát Địa của Phật nhắc hay Bồng Lai Tiên Đảo đều có thể đến, đó là do tâm hiểu đạo mà có thể ra ngoài tam giới.


    Nhược điểm của Tâm nhãn là tâm có thể tấc động dẫn đến "huyễn". Tùy vào môn phái quan niệm mà cảnh thấy có thể do tâm phóng chiếu ra. Cảnh hiện vẫn có thể do ma tà ảo hóa. Đây chính là lý do nhiều người nhận nhầm các cõi trời dục giới là Thiên Đình, hiểu sai về Đế Thích Thiên, phân biệt tôn giáo mà không có cơ sở. Muốn chính xác tâm phải hư, không thiên vị hay phân biệt, không bị trói bởi giáo lý sách vở. Tâm nhãn muốn chính xác thì phàm tâm phải thanh tĩnh bất động. Còn như người đời nay có mở Tâm nhãn sẽ tự thấy cái tôi của mình, tự nhốt mình trong bốn bức tường do chính tâm mình tạo ra, nên kết quả hiện ra cũng chỉ giới hạn bởi bức tường.


    Thiên nhãn là khách quan, một khi khai mở thì không còn phụ thuộc vào tâm. Một khi đã dùng được thì kết quả hiện ra là chân thực, không bao giờ bị huyễn. Thiên nhãn này nối thẳng với đại đạo, là nhãn thần thông chứng đắc hoàn toàn bởi Đại La Kim Tiên hay Giác Vương Như Lai Phật, lúc này gọi là Huệ nhãn. A La Hán và Nhân Tiên cũng có thể đạt được một phần Thiên nhãn, nghĩa là có nhiều việc muốn dùng Thiên nhãn để hiểu vẫn không được bởi do công lực giới hạn. Như vậy Thiên nhãn là có hiện ra kết quả hay không mà thôi, đã hiện là đúng, thuộc về "chân thần thông".

    Thiên mục
    (1) Khai mở thiên mục 7

    Lối thông ra (thông đạo) chính của thiên mục nằm giữa trung tâm của trán và sơn căn8. Cách người thường nhìn thấy với mắt phàm cũng giống như nguyên tắc chụp hình với máy ảnh. Tùy theo khoảng cách giữa vật thể và cường độ ánh sáng, cùng với sự điều chỉnh của ống kính hay kích thước của con ngươi, hình ảnh được tạo thành bởi các thần kinh thị giác trên tuyến tùng quả9 nằm ở phân nữa phía sau của đại não. Công năng nhìn xuyên thấu thật ra là trực tiếp sử dụng tuyến tùng quả nhìn thẳng ra bên ngoài thông qua thiên mục. Thiên mục của một người trung bình không thông vì khe hở của lối thông ra chính rất là chật hẹp, rất đen tối, không có chút linh khí, không phát quang. Lối thông ra của một số người bị tắt nghẽn vì vậy họ không có thể thấy được.

    Ðể khai mở thiên mục, trước hết chúng ta dùng sức mạnh ở bên ngoài hay là sức mạnh tự tu luyện được để khai mở lối thông ra. Hình dạng của lối thông ra thay đổi tùy mỗi cá nhân và nó có dạng như hình bầu dục, hình tròn, hình thoi và hình tam giác, người luyện thật giỏi thì lối thông ra rất tròn. Thứ nhì là vị thầy ban cho một con mắt, nếu tự mình tu luyện thì phải tự tạo nên con mắt này. Thứ ba là phải có tinh hoa khí ở vị trí của thiên mục.

    Thông thường chúng ta thấy được nhờ sử dụng cặp mắt này, đúng ra là hai mắt này ngăn chặn lối thông ra của chúng ta vào các không gian khác. Nó vận hành như là một tấm chắn, vì vậy chúng ta chỉ có thể nhìn thấy các đồ vật hiện hữu trong không gian vật chất của chúng ta mà thôi. Sự khai mở thiên mục cho phép người ta nhìn thấy mà không cần sử dụng hai mắt này. Sau khi đạt đến một trình độ rất cao, quý vị cũng có thể tu có được một chân nhãn. Rồi thì quý vị có thể sử dụng chân nhãn của thiên mục hay là chân nhãn ở nơi sơn căn để nhìn. Theo Phật Gia thì mỗi lỗ chân lông là một con mắt, có mắt ở trên khắp cơ thể con người. Theo Đạo Gia thì mỗi điểm huyệt (huyệt vị) là một con mắt. Tuy vậy lối thông ra chính là thiên mục, nó phải được khai mở trước tiên. Trong lớp học tôi đã gắn cho mọi người những thứ để có thể khai mở thiên mục. Vì cơ thể của mỗi người có tố chất khác nhau nên hiệu quả cũng không như nhau. Có người thấy một lỗ đen tương tự như một cái giếng sâu, điều này có nghĩa là lối thông ra của thiên mục màu đen. Có người thấy lối thông ra màu trắng, thiên mục sắp được mở nếu thấy đồ vật ở trước đường hầm này. Có người thấy đồ vật quay vòng, đấy là những thứ Thầy gắn cho để khai mở thiên mục. Quý vị sẽ có thể nhìn thấy một khi thiên mục được khai thông hoàn toàn. Có người có thể nhìn thấy một con mắt lớn qua thiên mục của họ và nghĩ rằng đó là mắt Phật. Thật ra đó chính là mắt của họ. Ðây thường là những người có căn cơ bẩm sinh (tiên thiên) tương đối tốt.

    Theo thống kê của chúng tôi, trong mỗi lớp học có hơn phân nửa người có thiên mục được khai mở. Một vấn đề được nêu ra khi thiên mục mở là người với tâm tính không cao lắm có thể dễ dàng sử dụng nó để làm điều xấu. Ðể tránh vấn đề này, tôi mở thiên mục của quý vị thẳng đến cấp huệ nhãn thông, nói khác đi là mở đến một cấp cao để cho phép quý vị thấy trực tiếp các cảnh vật ở các không gian khác và để nhìn thấy những thứ có thể sẽ xuất hiện trong lúc tu luyện để tạo thêm niềm tin cho quý vị, làm cho niềm tin vào sự luyện công thêm vững chắc hơn. Người vừa mới bắt đầu luyện công thì tâm tính của họ chưa thể đạt đến cao độ của người siêu thường. Nên khi họ có được những điều siêu phàm, nó rất dễ để họ làm những điều sai trái. Lấy một thí dụ vui vui là nếu quý vị đi ngoài đường và gặp quầy bán vé sổ số, quý vị có thể rời đó với một giải nhất. Ðiều này cắt nghĩa điều tôi muốn nói. Nó không được phép xảy ra như vậy. Một lý do khác nữa là hãy xét sự khai mở thiên mục của chúng ta ở đây trong một phạm vi rộng lớn. Thí dụ như thiên mục của mọi người được mở ở một cấp thấp, hãy chỉ tưởng tượng rằng nếu mọi người có thể trông thấy xuyên qua cơ thể con người, hay là có thể thấy các đồ vật phía sau bức tường; chúng ta còn có thể gọi đây là xã hội người thường nữa không? Nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến trạng thái của xã hội người thường, do đó, nó không được phép cũng như không được thực hiện. Hơn nữa, nó không đem lại lợi ích gì cho người luyện công, và chỉ dung túng thêm sự ràng buộc10 của người luyện công. Vì lý do đó, chúng tôi không mở thiên mục cho quý vị ở một cấp thấp, thay vào đó chúng tôi mở nó trực tiếp ở cao tầng.

    (2) Các cấp bậc của thiên mục

    Thiên mục có nhiều cấp bậc khác nhau. Tùy theo cấp bậc, nó trông thấy các cõi giới khác nhau. Theo Phật giáo có năm cấp bậc11 là: Nhục Nhãn Thông, Thiên Nhãn Thông, Huệ Nhãn Thông, Pháp Nhãn Thông và Phật Nhãn Thông. Mỗi cấp bậc lại chia ra thành các cấp phụ là thượng, trung và hạ. Ở các cấp từ thiên nhãn thông trở xuống, nó chỉ quan sát được thế giới vật chất của chúng ta. Chỉ ở các cấp từ huệ nhãn thông trở lên nó sẽ có thể quan sát các không gian khác. Một số người có công năng xuyên thấu12, nhìn còn chính xác hơn các Máy Tạo Hình (Quét ảnh C.T). Tuy nhiên, những gì họ có thể trông thấy vẫn còn nằm trong thế giới vật chất này và chưa vượt khỏi không gian mà chúng ta đang ở. Nó không thể được xem như đã đạt đến một trình độ cao cấp về thiên mục.

    Cấp bậc của thiên mục tùy thuộc vào số lượng tinh hoa khí của một người cũng như bề rộng, độ sáng và góc độ cản trở của lối thông ra chính. Tinh hoa khí ở bên trong là điều then chốt để xem thiên mục có thể được mở trọn vẹn chưa. Ðiều đặc biệt là rất dễ mở thiên mục cho trẻ em dưới 6 tuổi. Ngay cả tôi không cần dùng tay nữa; nó mở ngay lập tức khi tôi bắt đầu nói vì trẻ em tiếp nhận rất ít ảnh hưởng xấu trong thế giới vật chất này của chúng ta và chưa phạm phải lỗi lầm nào hết. Tinh hoa khí của chúng được giữ gìn rất tốt. Ðối với trẻ em trên 6 tuổi, thiên mục của chúng càng khó mở hơn vì do nơi các ảnh hưởng xấu từ bên ngoài càng gia tăng khi chúng lớn lên. Ðặc biệt nữa là với một nền giáo dục không tốt, bại hoại, và trở thành đồi bại có thể làm cho tất cả tinh hoa khí tan biến mất. Sau khi tuột dốc đến mức độ nào đó, nó sẽ biến mất đi. Những người mà tinh hoa khí hoàn toàn mất hẳn đi có thể dần dần khôi phục lại qua việc luyện công, nhưng nó đòi hỏi nhiều thời gian và nhiều cố gắng hơn. Cho nên tinh hoa khí rất là quý báu.

    Tôi không chủ trương mở thiên mục ở cấp thiên nhãn thông, vì khi công lực của người luyện công còn thấp, họ sẽ bị mất nhiều năng lượng khi sử dụng thiên mục hơn là năng lượng thu thập được qua sự luyện công. Nếu linh khí bị mất nhiều quá, thiên mục có thể bị đóng lại lần nữa, một khi nó đóng lại thì sẽ không dễ gì mà mở nó lại lần nữa. Vì vậy khi tôi mở thiên mục cho ai, tôi thường mở nó ở cấp huệ nhãn thông. Các người tu luyện sẽ có thể thấy các cảnh vật của các không gian khác mặc dầu có thể thấy rõ hay mờ. Do ảnh hưởng của các điều kiện bẩm sinh (tiên thiên), có người có thể thấy được rõ ràng, có người thấy lúc ẩn lúc hiện; có người không thấy được rõ ràng, tuy nhiên ít ra quý vị cũng có thể thấy được ánh sáng. Vì vậy nó mang lại ảnh hưởng tốt cho người luyện công để phát triển lên trình độ cao hơn nữa. Những người không thấy rõ ràng sẽ có thể khá hơn qua sự luyện công.

    Những người thiếu chất tinh hoa khí chỉ thấy các hình ảnh trắng đen khi nhìn bằng thiên mục. Ðối với những người tương đối có nhiều tinh hoa khí hơn, thiên mục của họ sẽ có thể thấy các cảnh vật bằng màu sắc và hình dạng rõ ràng hơn. Càng có nhiều tinh hoa khí thì càng nhìn thấy rõ ràng hơn. Tuy nhiên, mỗi cá nhân đều khác nhau. Có người bẩm sinh thiên mục đã mở, trong khi một số người khác bị đóng rất chặt. Khi thiên mục đang mở ra, nó giống như cái bông đang nở từng lớp này đến lớp khác. Trong lúc ngồi thiền, lúc khởi đầu quý vị sẽ phát hiện thiên mục có một đóm sáng, lúc bắt đầu, cái đóm này không sáng chói cho lắm, và sau đó chuyển sang màu đỏ. Có người thiên mục bị đóng gắt quá nên phản ứng lúc đầu của họ cũng rất mạnh mẽ. Họ sẽ cảm thấy các bắp thịt chung quanh lối thông ra chính và vùng sơn căn đang căng phồng lên như bị ép và bóp chặt về phía bên trong. Hai bên thái dương và trước trán của họ bắt đầu cảm thấy như phồng to lên và đau nhức do các phản ứng của sự khai mở thiên mục. Người có thiên mục dễ mở đôi khi có thể thấy điều gì đó. Trong lớp học, có người tình cờ thấy được pháp thân của tôi. Khi họ cố gắng nhìn chăm chú hơn thì nó biến mất. Thật ra, họ đã sử dụng mắt thịt của họ. Quý vị phải giữ yên trạng thái khi trông thấy điều gì với đôi mắt khép lại, và dần dần quý vị sẽ thấy chúng rõ hơn. Khi quý vị muốn thấy gần hơn nữa, quý vị đã thật sự chuyển qua nhìn bằng mắt thịt của mình và sử dụng các thần kinh thị giác. Khi đó, quý vị sẽ không thể thấy được gì hết.

    Thiên mục ở các cấp bậc khác nhau có thể nhận thức được các cõi khác nhau. Một số cơ sở nghiên cứu khoa học không hiểu đạo lý này và kết quả là vài cuộc thí nghiệm về khí công không đạt được hiệu quả mong muốn. Nhiều lần các thí nghiệm ngay cả dẫn đến kết quả ngược lại. Chẳng hạn như có một đơn vị thiết kế một phương pháp để trắc nghiệm các công năng, họ yêu cầu các thầy khí công nhìn vào trong một hộp đậy kín. Vì cấp bậc thiên mục của những thầy khí công này không giống nhau, nên các câu trả lời kết quả trắc nghiệm của họ cũng không giống nhau. Vì vậy, các nhân viên làm trắc nghiệm cho thiên mục là sai lầm, họ có cái nhìn lệch lạc. Thông thường người có thiên mục mở ở cấp thấp đạt được kết quả khả quan hơn với loại thí nghiệm này, vì thiên mục của họ mở ở cấp thiên nhãn thông, rất thích hợp để chỉ quan sát các đồ vật trong không gian vật chất này. Vì vậy người không hiểu rõ thiên mục nghĩ rằng những người này có các công năng tối cao. Tất cả các vật thể, bất luận vật hữu cơ hay vô cơ, hiện ra với hình dáng khác nhau trong các không gian khác nhau. Chẳng hạn cái ly thủy tinh khi vừa được chế tạo ra, thì đồng thời có một linh thể sinh ra ở một không gian nào đó. Hơn nữa, ngay cả trước khi linh thể này xuất hiện, nó có thể có điều gì khác nữa. Với thiên mục ở cấp thấp nhất, người ta sẽ thấy lớp thủy tinh. Ở một cấp cao hơn, người ta sẽ thấy một linh thể hiện diện trong một không gian khác. Ở một cấp cao hơn nữa, người ta sẽ thấy hình thức của vật chất trước khi có sự xuất hiện của linh thể.
    (3) Công năng dao thị

    Sau khi mở thiên mục, có người có được công năng dao thị (công năng thấy xa), họ có thể nhìn thấy các đồ vật ở cách xa ngàn dặm. Mỗi cá nhân chiếm cứ khoảng không gian riêng của họ và nó cũng rộng lớn bằng kích thước của vũ trụ, trong khoảng không gian riêng biệt13 này, họ có một tấm gương trước trán, nhưng không thấy được trong cõi không gian của chúng ta. Mọi người đều có tấm gương này, chỉ là người không luyện công thì nó quay vào trong, người luyện công thì tấm gương này từ từ quay chung quanh trục của nó. Khi quay tấm gương này có thể phản chiếu những gì người đó muốn thấy. Trong cõi không gian riêng biệt này, người đó tương đối to lớn, cơ thể của họ khá lớn và tấm gương này cũng thật lớn. Bất cứ cái gì người tu muốn nhìn thấy có thể được phản chiếu lại trên tấm gương. Tuy vậy một khi tấm gương ghi nhận được hình ảnh, người đó cũng chưa có thể thấy nó được. Hình ảnh sẽ lưu lại trên tấm gương trong khoảnh khắc, xong rồi tấm gương sẽ quay nữa, làm cho quý vị thấy được hình ảnh của đồ vật hiện trên đó. Nó sẽ lật trở lại thật mau. Nó quay lui và tới không ngừng nghỉ. Phim chớp bóng di động 24 hình trong một giây để đạt được động tác liên tục. Tốc độ mà tấm gương lật qua còn mau hơn đó nữa, vì vậy, các hình ảnh dường như liên tục và rõ ràng. Ðây là dao thị. Nguyên tắc của dao thị thật là đơn giản. Ðiều này vẫn được giữ thật bí mật, tuy vậy tôi tiết lộ nó với chỉ vài hàng.

    (4) Các cõi không gian

    Không gian, dựa vào những điều chúng ta trông thấy, quả thật là phức tạp. Nhân loại chỉ biết không gian mà con người hiện đang sống, và các cõi không gian khác thì chưa được thám hiểm hay là khám phá tới. Nói về những điều đến từ các không gian khác, các thầy khí công của chúng ta đã nhìn thấy hàng tá các cấp bậc không gian khác nhau và cũng có thể dùng lý luận để giải thích sự hiện hữu của nó, nhưng khoa học không thể chứng thực được. Có một số điều, ngay cả nếu quý vị không chấp nhận sự hiện hữu của chúng, nhưng chúng vẫn được phản ánh một cách trung thực trong không gian của chúng ta. Chẳng hạn như có một nơi gọi là quần đảo Bermuda, hay còn được mệnh danh là "vùng tam giác quỷ", một số tàu bè đã biến mất trong vùng này, một số máy bay cũng mất tích luôn, và sau đó lại xuất hiện trở lại vài năm sau đó. Không ai có thể giải thích được nguyên nhân, không ai đi quá giới hạn của các tiến trình suy nghĩ và lý luận của con người. Thật ra, nó là một đường đi vào một không gian khác. Không giống như cánh cửa bình thường của chúng ta với một vị trí cố định, nó ở một trạng thái không ổn định. Nếu chiếc tàu nào tình cờ đi vào khi cánh cửa được mở, nó có thể đi vào cõi không gian khác rất dễ dàng. Con người không thể cảm nhận được sự khác biệt giữa các không gian, và họ đi vào trong một không gian khác trong nháy mắt. Khoảng cách giữa các không gian không thể nào được diễn đạt bằng dặm, như là cách xa hàng ngàn dặm. Mọi thứ đều hội tụ vào một điểm nơi đây. Các không gian khác nhau thật sự xảy ra cùng nơi chốn và cùng thời gian. Chiếc tàu nhảy vào trong một chốc lát và trở ra lại do sự tình cờ thôi. Tuy vậy, nhiều năm đã trôi qua trong thế giới này vì thời gian khác nhau ở hai cõi không gian này. Có nhiều thế giới đồng nhất14 hiện hữu trong mỗi không gian, tương tự như mô hình của các cấu trúc nguyên tử, một quả cầu được nối liền với quả cầu khác bằng một đoạn thẳng và rất nhiều quả cầu lẫn nhiều đoạn thẳng liên kết với nhau như vậy, nó quả thật là phức tạp.

    Bốn năm trước kỳ thế chiến tranh thế giới lần thứ 2, một phi công người Anh đang thi hành một công tác. Khi đang bay giữa chừng, anh ta đụng phải một cơn bão táp rất lớn. Dựa theo kinh nghiệm, anh ta tìm gặp một phi trường bỏ hoang. Vừa lúc phi trường xuất hiện trước mắt anh ta, một hình ảnh hoàn toàn khác hẳn đến trong tầm nhìn của anh ta, nó bỗng nhiên nắng chói và không có chút mây nào như thể anh ta vừa mới hiện ra từ một thế giới khác. Các máy bay đậu ở phi trường này sơn màu vàng, và người ta đang bận rộn làm việc trên mặt đất, anh ta có cảm giác rất lạ! Sau khi hạ cánh, không ai nhận ra anh ta. Ngay cả đài kiểm soát không lưu cũng không có liên lạc với anh ta. Người phi công quyết định rời khỏi nơi đó vì trời đã tạnh bão. Anh ta bay trở lại, và lúc tới cùng khoảng cách mà anh ta thấy phi trường này phút chốc trước đó, anh ta lại đâm đầu vào cơn bão táp một lần nữa. Cuối cùng anh ta xoay trở để ra khỏi nơi đó. Khi anh ta báo cáo tình trạng này và anh ta cũng ghi xuống trong sổ phi hành, cấp trên của anh ta không tin chuyện đó. Bốn năm sau đó, thế chiến thứ hai bùng nổ. Anh ta được thuyên chuyển đến cái phi trường bỏ hoang đó. Anh ta lập tức nhớ lại cảnh tượng xảy ra giống hệt như điều mà anh ta đã thấy bốn năm về trước. Các thầy khí công của chúng ta tất cả đều biết những thứ đó là gì. Anh ta đã làm cùng việc đó bốn năm sớm hơn là anh ta phải làm sau đó. Trước khi bắt đầu hành động, anh ta đã đến đó và diễn xuất vai trò của mình trước, và xong rồi trở lại làm đúng theo thứ tự.

    Hỏa xà đạo gia

    Hỏa xà đạo gia xưa gọi là xích xà. Hồi đầu cách đây vài năm lúc tôi mới nhận được một vài công phu chân truyền, nguyên thần mới tỉnh thì có tìm hiểu hỏa xà.

    Có lần tôi và sư đệ gặp brahma để hỏi thì lão nói đại loại: chia cơ thể thành hai nửa, một bên âm một bên dương, bên âm hút địa hỏa dương còn bên dương hút địa hỏa âm, hai luồng địa hỏa đi lên hợp với khí thì khiến hỏa xà đi lên. Tôi và đứa em lúc đó không biết làm sao chia đôi cơ thể. Mọi việc do duyên, thông qua hậu duệ của tôn tư mặc thần y mà tôi có được một thủ ấn, ấn này chia cơ thể làm hai nửa âm dương. Khi đó tôi và đứa em lại qua gặp tôn tư mặc, từ đó mà biết được pháp thu địa hỏa âm dương. Tôn tư mặc có nói với chúng tôi mấy câu về công phu này như sau: tam muội luyện hình, xích xà thấu quan. Hậu duệ tôn tư mặc hiện nay chỉ dùng nó để chữa bệnh, không còn pháp thu địa hỏa đưa xích xà đi lên.


    Công phu này 10 năm thì chứng nhân tiên, vọng tâm diệt, máu hóa trắng rụng lông hết dịch, trẻ lại, răng rụng cũng mọc lại. Ngộ thì 200 năm có thể chứng địa tiên. Lại tiếp thì sau 600 năm nữa có thể chứng diệu hữu diệu vô thành thiên tiên. Cũng như bên yoga khai mở hoàn toàn 7 luân xa trung mạch. Mật tông đạo phật cũng có về 7 luân xa, nhưng theo tôi biết họ chỉ có thể đạt tới mức thông nhân tiên.


    Lấy 7 luân xa của ấn độ tạm làm lý thuyết

    1. Luân xa thứ Nhất:

    Muladhara chakra (sanskrit). Vị trí nằm giữa hậu môn và bộ phận sinh dục, tương đương với huyệt Hội Âm của châm cứu học. Nó được biểu hiện bằng một bông sen bốn cánh màu đỏ, chủng tự tiếng sanskrit của nó là LAM. Luồng hỏa hầu Kundalini nằm phục ở đây.

    Hành giả Yogi khi thành tựu phép quán tưởng luân xa này, sẽ làm chủ được địa đại, tiêu trừ nghiệp quá khứ, biết được ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, thọ hưởng niềm hoan lạc tự nhiên.

    2. Luân xa thứ Hai:

    Svadhisthana chakra. Vị trí nằm dưới rốn chừng bốn ngón tay, tương đương với huyệt Quan nguyên, biểu hiện bằng bông sen sáu cánh màu cam, chủng tự là VAM. Thành tựu phép quán tưởng luân xa này sẽ làm chủ được thủy đại và các giác quan, biết được cảnh Trung giới (monde astral).

    Tham ái, giận hờn, ngã mạn, ganh tỵ và các phiền não khác đều được tiêu trừ. Vượt thoát tử thần.

    3. Luân xa thứ Ba:

    Manipura chakra. Vị trí ở giữa rốn và xương ức (sternum), tương đương với huyệt Trung quản. Biểu hiện bằng bông sen mười cánh màu vàng, chủng tự là RAM. Người Yogi thành tựu phép quán luân xa này sẽ làm chủ hỏa đại, không còn sợ lửa thiêu đốt, hoàn toàn thoát khỏi bệnh tật.

    4. Luân xa thứ Tư:

    Anahata chakra. Vị trí ở giữa ngực, tương đương với huyệt Ðản trung. Biểu hiện bằng bông sen mười hai cánh màu xanh lá cây, chủng tự là YAM. Thành tựu phép quán tưởng luân xa này, làm chủ phong đại, tùy ý bay lượn trong không gian hoặc chui nhập vào thân người khác, đầy đủ đức tính của chư thiên và tình thương vũ trụ.
    5. Luân xa thứ Năm:

    isuddha chakra. Vị trí ở ngay dưới cổ, tương đương với huyệt Thiên đột. Biểu hiện bằng bông sen mười sáu cánh màu xanh da trời. Chủng tự là HAM. Thành tựu phép quán tưởng luân xa này sẽ làm chủ không đại, thân thể không bao giờ tàn hoại, ngay cả khi thế gian bị tiêu diệt, đạt được trí huệ thông suốt bốn kinh Veda và ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai.

    6. Luân xa thứ Sáu:

    Ajna chakra. Vị trí ở giữa hai chân mày nơi mà huyền môn thường gọi là con mắt thứ ba, tương đương với huyệt Ấn đường. Biểu hiện là bông sen hai cánh màu xanh nước biển, chủng tự là A. Thành tựu phép quán luân xa này, người Yogi tận trừ nghiệp quá khứ, trở thành người hoàn toàn giải thoát ngay trong hiện đời, đạt được tám phép thần thông (siddhi) và ba mươi hai phép phụ.

    7. Luân xa thứ Bảy:

    Sahasrara chakra. Vị trí ngay trên đỉnh đầu, tương đương với huyệt Bách hội. Biểu hiện bằng bông sen ngàn cánh màu tím, trắng, vàng. Chủng tự là OM. Khi luồng hoả hầu Kundalini chạy lên tới đây hành giả trở thành một bậc giác ngộ giải thoát hoàn toàn.


    Đạo gia tam muội chân hỏa

    Chân hỏa có thể khiến cho âm nghiệp tan hết, chuyển thức thành trí, luyện hình vv Chân hỏa có nhiều loại khác nhau, đã là chân thì không phải là giả, cũng không phải là loại hỏa hữu hình hậu thiên sa vào sắc tướng. Hỏa hậu thiên sắc tướng như thế nào thì chắc cái đó không cần nói.


    Chân hỏa có lẽ có đến hàng trăm hàng nghìn loại nhng mình chỉ biết vài chục loại như nội hỏa, nguyên khí hỏa, mệnh môn hỏa, hỏa xà, hỏa giao long, hỏa long, tử vân hỏa long, thuần dương chân hỏa, kỳ lân tam muội, chân hỏa huyền không, nhất tinh hỏa, chân mệnh hỏa vv chân hỏa để luyện hình bao giờ cũng phải có nguyên khí, đã không có nguyên khí thì không có chân hỏa. Ngoài mệnh môn chân hỏa thúc đẩy sinh cơ sức sống của cơ thể, có thể nói hỏa xà và nội hỏa là kém nhất trong các loại chân hỏa trên. Có loại hỏa thổi bùng sinh cơ của vạn vật, là thứ nuôi dưỡng vạn vật tự nhiên, cũng là độ hóa vạn vật một cách tự nhiên. Cũng có loại luyện để từ không nhập thái vô vv


    Tùy vào loại hỏa khác nhau mà chất lượng luyện hình khác nhau, như hỏa xà và hỏa giao long có thể trung mạch, cao hơn thì trung mạch thông thêm tầng mức. Hoặc như nho gia giữ đủ nhân lễ nghĩa trí tín thì tự có chính dương chân hỏa luyện hình mà đắc thiên tiên.


    Để đem so sánh mức độ khó khăn thì có thể lấy công phu của một phái đạo gia 10 năm có hỏa tương đương hỏa giao long luyện hình mà trung mạch thông lục thần thông có, vẫn công phu đó 200-300 năm thì đắc địa tiên, 800-1000 năm thì đắc thiên tiên. Đấy là cái để biết về mức độ chênh lệch thôi, mà hỏa giao long đã vượt xa cái hỏa xà thông trung mạch rồi.


    Nói đến hỏa không có nghĩa là hậu thiên hữu hình, phàm dùng quán tưởng là dùng hậu thiên thức thần hay thức tác động mà rất dễ khiến âm trọc nhiễu loạn thêm. Nhiều phái luyện món gì cũng cho là mình tối thượng, thế nhưng công phu đa phần là quán tưởng, nhìn lại mấy ông trưởng dòng các phái đó thật tệ, đến so với trúc cơ của đạo môn còn không bằng mà đã đi khắp nơi truyền đạo. Đúng là người đui dắt người mù cùng nhau xuống hố.

    Năm Tỵ nói chuyện sự nguy hiểm của Hỏa xà (Kundalini)

    Từ trước đến nay, lời đồn đại “sự nguy hiểm khi khai mở Hỏa xà (Kundalini)” tồn tại trong giới Thiền như một rào cản làm nản lòng những người muốn vứt bỏ Phàm Ngã, một lòng đi tìm Đạo. Quả nhiên, sự nguy hiểm đó là có thật, và cũng được các bậc Đạo sư danh tiếng cảnh báo. Nguy hiểm thứ nhất là nghiệp quả chưa dứt. Nguy hiểm thứ hai là chưa biết kiềm chế tính nóng giận của mình.


    Vì vậy ta phải nhấn mạnh rất nhiều tới những nguy hiểm của việc khơi hoạt Hỏa xà (Kundalini). Ta hãy khảo sát bản chất của chúng. Trước hết và trên hết ta có nguy cơ kích thích tình dục sao cho cá nhân bị kiệt quệ hết sinh lực do bị tình dục ám ảnh. Sự loạn trí cũng nằm theo đường lối này. Sinh lực tình dục và hoạt động tình dục có liên quan mật thiết tới Kundalini, vì cả hai đều có tính cách vô cùng sáng tạo về bản chất và sự phát triển của thứ này, ắt kích động sự phát triển của thứ kia. Mọi thôi thúc tình dục phải bị hoàn toàn kiểm soát, tùy ý của cá thể và phải ở tình trạng của điều mà ta có thể gọi là sự siêu hóa, nghĩa là nó phải được nhận ra là một phép bí tích và do đó được dùng một cách kính cẩn theo tinh thần tận hiến. Sự phân biệt về giới tính với đủ mọi hàm ý của nó là một trong những tặng phẩm đầu tiên mà Thượng Đế ban cho các con của mình. Nó thường bị lạm dụng và sử dụng một cách thô bạo, nhưng cuối cùng ta phải học cách tiếp cận với nó giống như người tu sĩ chân chính tiếp cận với bàn thờ. Chỉ những kẻ nào đã tiếp cận được như thế với thiên tính của tình dục thì mới có thể được an toàn giao phó cho mình cái tặng phẩm sau này là Kundalini, mà y có thể vận dụng một cách an toàn và có ích qua việc đã được thử thách và tỏ ra đáng tin cậy.


    Hai là có nguy cơ làm xáo trộn sự thăng bằng nhịp nhàng của thể xác do kích thích không kiểm soát được đủ thứ trung tâm lực của cơ thể – có thể là làm hại cho quả tim, cho thần kinh hệ thông qua nhật tùng, cá nhân trở thành một kẻ tàn tật mãn tính và nói chung là bộ óc xác phàm bị suy thoái, tạo ra một sự căng thẳng, rốt cuộc là loạn trí. Ta có thể tránh được nguy cơ này miễn là cá thể phải hoàn toàn khỏe mạnh, đã được một mức độ tự chủ cao, suy nghĩ một cách tịch lặng và minh bạch chứ không bao giờ hẹp hòi, không nô lệ cho bất kỳ sự thôi thúc tình dục nào. Thật ra có rất ít khuynh hướng tình dục nếu không phải là tuyệt nhiên không có. Ta nên nhớ rằng cho dù việc khơi hoạt Kundalini có thể giúp y rất nhiều thì sự phát triển của nó vẫn phần lớn là tùy thuộc vào y. Y phải theo dõi đủ thứ hiện tượng và điều tiết chúng. Bằng cách nào? Y sẽ biết cách nếu y đã sẵn sàng khơi hoạt nó. Ở đây ta không cần đưa ra thêm chỉ dẫn nữa, vì dấu hiệu của một cá nhân đã sẵn sàng khơi hoạt Kundalini cốt ở nơi tri thức trực giác về điều mà ta phải làm và nơi sự trợ giúp của đấng Minh triết.


    Ta không bao giờ được quên rằng thể xác vốn thô trược hơn và do đó khó thích ứng hơn mọi thể khác, và điều này có khuynh hướng gây ra sự tập trung thần lực ở một vùng đặc biệt chứ không phân bố tổng quát trên toàn bộ cơ thể. Nếu ta xét tới, chẳng hạn như thể vía và thể trí thì ta nhận thấy rằng theo một ý nghĩa nào đó mỗi thể này là một cơ quan lớn duy nhất. Trong trường hợp các thể thuộc nội giới thì các chức năng (mà trong một chừng mực nào đó vốn liên kết với những bộ phận đặc thù của thể xác) có tính cách phổ quát hơn. Có lẽ trong một chừng mực nào đó ta vẫn còn có thể nói tới sự định xứ nơi các thể nội giới, nhưng ít nhiều gì thì trọn cả thể vía đều cảm xúc, đều nhận ấn tượng, đều giao tiếp. Điều này cũng đúng với thể trí. Trọn cả thể trí đều suy nghĩ.


    Thế mà đối với thể xác trong khi xúc cảm được phân phối ở khắp nơi, trong khi các trung tâm lực đặc biệt chịu ảnh hưởng của những xúc cảm và cảm giác thuộc loại không thông dụng thì bộ óc lại đóng vai trò kênh giao tiếp chính yếu giữa thể xác và thể vía. Ta hãy làm tê cóng bộ óc, tê cóng những dây thần kinh giao tiếp với bộ óc thì xúc cảm sẽ biến mất đối với tâm thức đang tỉnh táo, mặc dù những hậu quả của nó vẫn còn rơi rớt, bằng chứng là cú sốc sau một vụ mổ mà do ảnh hưởng của thuốc mê nên con người tạm thời không bị đau.


    Cũng giống như vậy, bộ óc là kênh giao tiếp chính yếu giữa thể xác và thể trí. Tôi cảm thấy chắc chắn rằng thể trí gây ấn tượng theo một mức độ nào đó lên mọi bộ phận của thể xác sao cho mọi bộ phận đều “suy nghĩ” đến một mức độ nào đó cũng giống như mọi bộ phận đều cảm xúc. Nhưng bộ óc là trung tâm chính yếu, là cầu nối vĩ đại đối với ngoại giới. Vì vậy, ta có thể hình dung các thể nội giới gây áp lực trên khắp thể xác nhưng áp lực lớn nhất là ở cầu nối bộ óc. Bộ óc đứng mũi chịu sào tương đối dễ dàng trong những trường hợp bình thường và đối với những cá nhân bình thường. Vì, thật ra chỉ có rất ít những kênh dẫn nhỏ được phép mở ra giữa các thể khác nhau.


    Nhưng Kundalini tất nhiên sẽ lưu chuyển độc lập với những kênh dẫn thông thường để làm linh hoạt những trung tâm lực nhạy cảm nhất và tiếp nhận năng lượng nhiều nhất. Vì thế cho nên sự tập trung vốn sẵn có sẽ được tăng cường rất nhiều, thường thường là khi cơ quan hữu quan đã quá tải rồi. Một cá nhân mà vì lý do nào đó Kundalini có khuynh hướng kích động y thì chắc chắn là đang sống ở mức độ thực ra là chịu nhiều áp lực. Y rất có thể là vô cùng linh hoạt. Y rất có thể là tập trung sâu sắc thần lực nơi đủ thứ cơ quan của mình, những sự tập trung này thay đổi tùy theo việc y sử dụng cơ quan này hơn là cơ quan khác. Kundalini rất có thể là “giọt nước làm tràn đầy ly nước” nhấn chìm cá thể không may đó vào trong bóng tối tàn ác nếu y không phải là lực sĩ tâm linh đã được rèn luyện để chịu đựng sự căng thẳng đó.


    Chắc chắn là ở giai đoạn tiến hóa này phải xuất hiện những kênh dẫn giao tiếp giữa các nội giới và cá thể chủ yếu là sống nơi ngoại giới. Nhưng những kênh dẫn đó rất có thể là không đủ độ sâu, và nếu thình lình thần lực tràn vào như xoáy ốc qua một trong những kênh dẫn đó, hoặc trực tiếp nhập vào một cơ quan của thể xác thì chúng có thể bị “vỡ ra” và gây nên thảm họa.


    Khi các thể xác, vía và trí bắt đầu tan hòa vào các đối thể cao siêu chẳng hạn như trong trường hợp những người đang kết liễu kiếp người xét về mặt bị giam hãm trong các hạ thể, thì Kundalini tự nhiên là lưu chuyển mà không gặp sự cản trở tối thiểu nào. Bắt đầu chỉ còn có một Ngọn Lửa duy nhất, một Sự Sống duy nhất. Ở những giai đoạn sớm hơn thì việc cực kỳ thận trọng có tầm quan trọng sống còn vì Hỏa xà không hề phân biệt. Nó thiêu rụi hết. Nó có khuynh hướng chảy theo những đường ít bị đề kháng nhất và đôi khi những đường đó có thể dẫn xuống dưới chứ không phải dẫn lên trên với hậu quả tai hại khôn xiết.


    Khi sự phát triển diễn ra, khi tâm thức cao siêu dần dần chiếm ưu thế thường trực thì sự xuyên thấu lẫn nhau trở nên nhịp nhàng hơn, trọn cả tác nhân bên dưới đáp ứng một cách tức khắc và phong phú hơn với sự kích thích từ bên trên.


    Thế thì việc khơi hoạt Kundalini có tác dụng ra sao? Thực ra thì nó mở banh ra những cánh cửa cống cho đến nay chỉ mở chầm chậm và từ từ. Và, trong trường hợp người thường thì nó chỉ mở ở một mức độ rất hạn hẹp. Bắt đầu có sự giao tiếp hoàn toàn giữa mọi thể, mặc dù việc vận dụng và thuyết giải những sự giao tiếp đó tất yếu là vấn đề phải kéo dài trong một thời gian lâu sau khi đã xác lập được sự giao tiếp mở đầu. Các hạ thể bắt đầu phản ánh được càng ngày càng rõ rệt những đặc trưng của các thể cao thuộc thượng trí và hạ Bồ đề. Các trạng thái tâm thức bắt đầu lồng vào nhau sao cho xuất hiện một sự liên tục tâm thức mà con người cho đến lúc đó chưa hề trải nghiệm. Điều này có nghĩa là sự nhạy cảm gia tăng ghê gớm xuyên suốt mọi thể đòi hỏi một mức độ lớn lao của sự tự chủ mà ta thường xuyên nhấn mạnh.


    Thỉnh thoảng thì trong trường hợp của nhiều người, Kundalini phải được phát triển ở nơi chốn phồn hoa đô hội (nơi mà nguy hiểm ắt lớn hơn) chứ không phải trong rừng thẳm (nơi mà nguy hiểm chỉ là tối thiểu). Thời gian quá quý báu nên ta không thể biệt lập với thế giới nhất là trong thời buổi hiện nay, và ta phải chấp nhận sự mạo hiểm. Trọn cả thể xác trở thành một khí cụ vô cùng nhạy cảm đã được tẩy trược với mọi quan hệ qua môi trường xung quanh, do đó nó có thể dễ dàng bị xé tan thành mảnh vụn do kết quả tác động của những rung động thô trược và là điều kiện tất yếu để khơi hoạt Kundalini. Và, đó là sức khỏe của người trưởng thành hơn là của thanh niên.


    Nhưng còn hơn thế nữa. Mặc dù trọn cả thể xác đã trở nên nhạy cảm hơn rất nhiều thì bộ óc vẫn phải đứng mũi chịu sào. Áp lực lên óc phàm gia tăng rất nhiều vì bộ óc là cầu nối chính giữa thể xác và các thể nội giới. Liệu bộ óc có thể chịu được áp lực đó chăng? Đây có lẽ là vấn đề chính yếu liên quan tới việc khơi dậy Kundalini. Câu trả lời phần lớn là tùy thuộc vào mức độ mà chất xám của óc phàm đã đủ phát triển, trui rèn và củng cố chưa (nhờ vào sự tự chủ) để chịu sự căng thẳng đó. Có lẽ tình trạng và số lượng của các loa tuyến cũng là một yếu tố quyết định và chúng biểu thị tình trạng của các kênh tiếp xúc và của điều dường như là khả năng vươn rộng ra của chính vật chất thuộc xác phàm (tôi cũng chẳng biết nói sao hơn nữa). Nó phải có thể uốn cong mà không bị gãy. Ở đây tôi không dùng từ “uốn cong” theo nghĩa đen, có lẽ từ “thích ứng” ắt là chính xác hơn. Tôi nghĩ rằng áp lực của các thể nội giới có bản chất giống như dòng chảy của một lưu chất, một dòng chảy dường như không gì cưỡng lại nỗi. Liệu bộ óc có thể uốn mình theo dòng chảy đó, bị nó khuất phục và thích ứng với nó chăng? Nếu được như vậy thì tốt thôi, nhưng sự cứng ngắt sẽ gây chết người và khi dùng từ cứng ngắc tôi không phải chỉ ngụ ý có thể nói là cứng ngắc của thể xác mà còn là sự cứng ngắc của thể trí và thể vía. Sự cứng rắn này chuyển dịch thành ra việc dựng nên những rãnh bên trong bộ óc (và quả thật cũng bên trong trái tim nữa) sẽ vỡ ra chứ không chịu mở ra. Đây là một vấn đề rất phức tạp vì cơ bản thì minh triết trong việc khơi hoạt Kundalini tùy thuộc phần lớn (mặc dù không hề toàn bộ) vào tình trạng của thể hạ trí và thể vía. Cũng như tùy thuộc vào mức độ mà thể Thượng trí và thể Bồ đề bắt đầu tiếp xúc và tự khẳng định. Nhưng ta cũng phải xét tới tình trạng của thể xác nữa, mặc dù nó chỉ là phản ánh tình trạng của các thể nội giới. Vậy thì vấn đề là: Liệu các thể nội giới đã được phát triển và kiểm soát đúng mức chưa, và liệu thể xác đã phục hồi chưa sau khi nó đã bị lạm dụng mà tất yếu phải xảy ra trong quá trình dài phát triển? Đó là vì thể xác thay đổi từ kiếp này sang kiếp khác (nói chung thì thể vía và thể hạ trí cũng giống như vậy) song mỗi thể mới đều được uốn nắn để phản ánh và biểu diễn mức độ phát triển mà con người đã đạt được. Quả thật có thể có trường hợp tinh thần đã sẵn sàng nhưng xác thịt lại yếu đuối, có trường hợp Chơn Ngã đã sẵn sàng nhưng các hạ thể còn yếu đuối vì lý do thể xác trong tình trạng hiện nay không thể chịu được sự căng thẳng của Kundalini. Trong những trường hợp đó có thể cần phải chờ tới một kiếp khác để cho những hình tướng hiện hữu bị phá vỡ đi thay thế bằng những hình tướng mềm dẻo hơn. Rõ ràng là từ mọi điều nêu trên ta thấy quá trình khơi hoạt Kundalini quả thật là phức tạp biết dường nào, và cá nhân nào tìm cách khơi hoạt nó mà không chịu sự chế tài khôn ngoan, không được dẫn dắt đúng mức, quả là liều lĩnh biết dường nào. Y hầu như chắc chắn sẽ chịu những sự đau khổ khủng khiếp. Vì thế cho nên bộ óc mới là một chỗ rất nguy hiểm, tai họa thường là do kết quả của một bộ óc quá căng thẳng.


    Nghe nói con đường huyền bí học rải rác nhiều thảm họa. Tôi trộm nghĩ rằng con đường khơi hoạt Kundalini (cho dẫu ở những giai đoạn rất sơ khởi) còn rải rác nhiều thảm họa hơn nữa. Giáo hoàng có nói: “Chỉ học một chút, tôi ắt là một điều nguy hiểm. Hãy uống cho nhiều, bằng không con sẽ không thưởng thức được Suối nước Pierian (nước cam lồ)”.


    Trước khi bất kỳ người nào tìm cách khơi hoạt Kundalini thì y nên biết nhiều điều về nó nhất là về những nguy hiểm của nó, y nên làm quen mật thiết với những nguy hiểm đó. Thế rồi y sẽ dẹp điều đó sang một bên cho tới khi y nhận được khuyến cáo bắt đầu. Chỉ biết chút ít khiến cho y có khuynh hướng điên rồ. Khi y đã uống được nhiều rồi thì y sẽ nhận ra được rằng bổn phận cấm không cho y thực nghiệm, những kết quả thực nghiệm khi tiến hành trong sự vô minh ắt gây ra tai họa trước hết là cho người thực nghiệm (xét về mặt nào đó thì điều này có thể không quan trọng mấy ngoại trừ đối với bản thân y) mà còn cho những người ngay xung quanh y, gây ra nguy hiểm cho cộng đồng nói chung và y không có quyền bắt người ta phải chịu nguy hiểm.

    G. S. ARUNDALE (Chân Như dịch, 2006)

    Theo: Trích “KUNDALINI: AN OCCULT EXPERIENCE”





    HỎA HẦU khái luận

    BẠCH LIÊN

    CUNG ĐA LI NI (KUNDALINI)

    MỘT THỨ THẦN LỰC CỦA VŨ TRỤ

    Các nhà Huyền Bí Học và các nhà Thông Thiên Học rất quen thuộc với danh từ Cung-đa-li-ni. Khi nghe nói tới Cung-đa-li-ni thì chúng ta liền nghĩ ngay tới luồng hỏa nằm im lìm trong mình con người tại xương mông và những sự nguy hiểm của nó, khi người ta khươi nó mà chưa tự chuẩn bị trước.

    Nhưng ít ai ngờ rằng Cung-đa-li-ni là một thứ thần lực của Vũ trụ; khắp nơi đều có nó, từ sông Thiên Hà cho đến hột nguyên tử, từ trên không gian vô cùng vô tận cho tới dưới đất cái của chúng ta.

    Khi Đức Thái Dương Thượng Đế hiện ra đặng sanh hóa một Vũ trụ thì trong bản thân Ngài đã có sẵn hai quyền năng: Ánh Sáng Sanh Tồn (Lumière de Vitalité) và Lửa Cung-đa-li-ni.

    Cung-đa-li-ni trong mình con người chỉ là một phần nhỏ nhen của Cung-đa-li-ni của Vũ trụ.

    CUNG-ĐA-LI-NI TẠI CÕI TRẦN

    Thần lực Cung-đa-li-ni là một sự biểu hiện tại cõi Trần của một trong vô số quyền năng của Thượng Đế. Nó thuộc về Triều Lưu Sanh Hóa Thứ Nhứt (1ère Effusion) do Ngôi thứ Ba của Thượng Đế sanh ra.

    Xin nhắc lại rằng Triều Lưu Sanh Hóa Thứ Nhứt biến đổi Ngươn Khí ra những nguyên tử đặng lập bảy cõi Trời và 49 cảnh, nó tạo ra những nguyên tố hóa học.

    Khi Thần lực của Ngôi thứ Ba xuống tới điểm thấp hơn hết của cõi chót, ở cõi Trần chúng ta tức là Trung Tâm Trái Đất, thì nó bắt đầu trở lên đặng Phản Bổn Hoàn Nguyên.

    SỰ SỐNG HAY LÀ KHÍ NGUYÊN DƯƠNG

    (FORCE PRIMAIRE)

    Ngôi thứ Nhì của Thượng Đế cho sự sống vào các nguyên tử rồi kết hợp chúng nó lại đặng làm ra những tế bào, những cơ thể và những hình dạng với quyền năng phát triển. Sự sống này cũng gọi là Khí Nguyên Dương (Force Primaire, courant vital) hay là Triều Lưu Sanh Hóa Thứ Nhì; khi xuống tới loài Kim Thạch rồi thì nó cũng bắt đầu đi trở lên xuyên qua các loài: Thảo mộc, Cầm thú, Con người và các hạng Siêu phàm.

    CUNG-ĐA-LI-NI LÀM VIỆC CHUNG VỚI KHÍ NGUYÊN DƯƠNG

    Cung-đa-li-ni làm việc chung với Khí Nguyên Dương về nhiều phương diện:

    1/- Điểm thứ nhứt : Trong lúc đi trở lên, Khí Nguyên Dương làm việc về khía cạnh sự sống, còn Cung-đa-li-ni về khía cạnh vật chất và hình dạng.

    2/- Điểm thứ nhì : Trong khi điện, nhiệt học và ánh sáng chỉ cảm đến bề ngoài của nguyên tử thì sự sống (Khí Nguyên Dương) và Cung-đa-li-ni hiện ra ở phía trong nguyên tử, tức là phía trong của tất cả những tế bào, những cơ thể của vạn vật. Hai quyền năng nầy có ảnh hưởng ở bên trong để kết hợp và nâng đỡ lẫn nhau.

    3/- Điểm thứ ba : Chính là Khí Nguyên Dương và Cung-đa-li-ni hiệp với nhau giúp cho con thú tiến đến mức cao tột của nó để thọ lãnh thần lực của Ngôi thứ Nhứt của Đức Thượng Đế đặng có Thương Trí và được đi đầu thai làm người.

    4/- Điểm thứ tư : Cung-đa-li-ni ở lớp vỏ phía ngoài, lớp thứ nhứt trong mình con người hợp với Khí Nguyên Dương làm ra từ điện trong xương sống. Từ điện rất hữu ích, nó giúp cho chất dĩ thái chở sanh lực lưu thông theo mấy đường gân đặng nuôi cái Phách và Xác thân con người, cũng như máu đen dưỡng khí theo huyết quản chạy khắp châu thân.

    Nói tóm lại: Cung-đa-li-ni có tánh cách đại đồng; trong hiện tượng nào của Trời đất cũng đều có nó. Nó liên kết những cõi Trời và những cảnh giới lại với nhau và giúp cho Tâm Thức lên tới những trình độ Siêu việt.

    CUNG-ĐA-LI-NI TRONG MÌNH CON NGƯỜI

    Cung-đa-li-ni là một thứ lửa nhưng không giống như lửa ở cõi Trần mà ta thường thấy đâu. Nó là một thứ lửa chảy cuồn cuộn như thác đổ. Người ta gọi nó là ‘Đức Mẹ Thế Giới’ (La Mère du Monde) bởi vì nhờ nó mà mấy thể của ta mới phục sinh và mấy cõi Trời mới lần lượt mở ra trước mặt ta.

    Nó cũng có tên là Con Rắn Lửa (Hỏa Xà) – Serpent de feu ou Feu-Serpent – bởi vì nó đi như con rắn bò chớ không phải tiến ngay tới, hoặc Hỏa Lực (Pouvoir enflammé).

    Cũng như những lực khác, Cung-đa-li-ni vẫn vô hình, nghĩa là con mắt phàm không thấy được.

    Ở trong xác thân con người, luồng hỏa xà nằm trong một cái ổ gồm nhiều lớp vỏ, hình cầu (sphère) trống rỗng, cái nầy chồng vô cái kia. Trong những lớp vỏ nầy có bảy lớp làm bằng chất Thanh Khí và Dĩ Thái nằm trong Luân Xa thứ Nhứt tại xương mông. Luồng hỏa ở phía ngoài, lớp vỏ thứ Nhứt thì vô hại và nó đã hoạt động trong mình con người rồi. Như tôi mới nói nó hợp với Khí Nguyên Dương đặng làm ra từ điện của chúng ta. Càng đi sâu vô trong, luồng hỏa mới càng dữ dội. Cung-đa-li-ni mặc dầu là một thứ lửa nhưng mà nó thuộc về âm.

    Đức Leadbeater nói rằng: Tại trung tâm Trái Đất có một chỗ gọi là Phòng Hóa Học của Ngôi thứ Ba (Laboratoire du 3è Logos). Người ta có ướm thử lại đó thám hiểm thử gặp một thần lực phi thường. Nó là thần lực của Ngôi thứ Ba, sức nóng của nó vô cùng dữ dội. Người ta chỉ đến được ở gần những vòng ngoài mà thôi.

    Mãnh lực của luồng hỏa ở trong mình con người vốn do Phòng Hóa Học của Ngôi thứ Ba sanh ra, hiện giờ Phòng nầy vẫn còn đương hoạt động. Nó thuộc về lửa ghê tợn ở trong miền thấp thỏi. Nó khác hẳn với thứ lửa của Sự Sống do Mặt Trời tuôn xuống.

    Thế thì con người thọ lãnh hai thứ lực một lượt. Một thứ thì từ Mặt Trời xuống tức là sanh lực thuộc về Dương, một thứ từ dưới đất đi lên, ấy là lửa Cung-đa-li-ni, thuộc về Âm. Vì vậy mới có câu ‘Trời là Cha, còn Đất là Mẹ của con người’. Tôi cũng xin quí bạn nên nhớ rằng: Hai lực Âm và Dương ở trong mình phải đồng cân với nhau, con người mới tráng kiện, vô bịnh. Trái lại, nếu lực nầy lấn lực kia thì cái tai hại sẽ đến cho con người.

    Đông Y căn cứ vào Âm và Dương, Thủy và Hỏa không phải là vô căn cứ đâu.

    CÁCH KHƯƠI LUỒNG HỎA

    Có nhiều cách khươi luồng hỏa :

    1)- Dùng Ý chí trong lúc tham thiền.

    2)- Hơi thở.

    3)- Những tư thế (cách ngồi).

    NHỮNG VẬN HÀ CỦA LUỒNG HỎA

    Khươi nó rồi thì phải biết cách dẫn nó đi. Những vận hà của nó là: ba đường ở trong xương sống như số 8 viết nằm.

    Đàn ông, đường bên mặt gọi là Banh-ga-la (Pingala) màu vàng. Đường bên trái gọi là Y-đa (Yda) màu đỏ tươi. Đường chính giữa gọi là Sút-hum-na (Soushoumna) màu xanh đậm.

    Đàn bà thì bên mặt là Y-đa, bên trái là Banh-ga-la. Trái ngược lại.

    Trong lúc đi lên, Cung-đa-li-ni có hai trạng thái: tịnh và động hay là Âm và Dương, nhưng phần Âm lấn hơn phần Dương. Vì thế người ta mới gọi Cung-đa-li-ni là Nữ Thần.

    Phần của Cung-đa-li-ni đi theo Y-đa thuộc về Âm.

    Phần của Cung-đa-li-ni đi theo Banh-ga-la thuộc về Dương.

    Trước nhứt phải làm cho Y-đa hoạt động đặng con người làm chủ được dục tình và các sự cảm xúc. Kế đó là Banh-ga-la, đặng kiểm soát và điều khiển cái Trí, bắt nó vâng mạng lịnh của con người và kích thích sự tưởng tượng. Cuối cùng là Sút-hum-na thì mới trọn vẹn. Sút-hum-na là đại diện cho Thượng Đế, ảnh hưởng của nó là ân xá và giải thoát. Nó đi đến đâu thì Tinh Thần Hóa đến đó.

    NHỮNG LUÂN XA (LES CHAKRAS)

    Luận bàn về Luồng Hỏa Cung-đa-li-ni thì phải nói vài lời về những Luân xa (Les Chakras). Chakra, tiếng Phạn nghĩa là bánh xe, và bởi vì nó xây tròn không ngớt cho nên gọi là Luân Xa. Những Luân Xa cũng gọi là những Trung Tâm Lực, là những trạm liên lạc để truyền sang thần lực từ Thể nầy qua Thể kia.

    Cái Phách, cái Vía, cái Trí v.v. . . đều có những Luân Xa.

    Xin nói về cái Phách trước nhứt. Những Luân xa của cái Phách ở trên bề mặt của Thể nầy, tức là ở ngoài Xác thân một chút. Chúng nó là những lỗ hủng giống hình cái dĩa. Nói một cách cho dễ hiểu, ấy là những vòng tròn quây không ngừng. Ở những người thường chúng nó hơi chói sáng lối 5 phân bề trực kính và tương đối thì nó quây hơi chậm.

    Khi chúng nó mở mang rồi thì chúng nó giống như là những ngôi Mặt Trời nhỏ và có khi tới 15 phân bề trực kính; nghĩa là lớn hơn trước ba lần.

    Có một điều lạ đáng nhớ là sự phát triển của những Luân xa không tùy thuộc đức hạnh của con người nghĩa là có nhiều người tánh tình không được tốt mà những Luân xa đã nở lớn. Còn trái lại có những người đáng làm gương mẫu mà những Luân xa chưa mở.

    NHỮNG LUÂN XA CỦA CÁI PHÁCH

    Cái Phách có mười Luân xa, nhưng bên Chánh đạo chỉ dùng có bảy. Bảy cái đó là :

    1)- Luân xa thứ Nhứt ở tại xương mông – Chakra Racine có 4 cánh.

    2)- Luân xa thứ Nhì ở tại trái thăng – Chakra de la Rate có 6 cánh.

    3)- Luân xa thứ Ba ở tại rún – Chakra ombilical có 10 cánh.

    4)- Luân xa thứ Tư ở tại trái tim – Chakra du coeur có 12 cánh.

    5)- Luân xa thứ Năm ở tại cuống họng – Chakra de la gorge có 16 cánh.

    6)- Luân xa thứ Sáu ở chính giữa hai chơn mày có 96 cánh. Chakra frontal chia làm hai phần, mỗi phần có 48 cánh.

    7)- Luân xa thứ Bảy ở tại Nê hườn cung – Chakra coronal có 972 cánh. Nó gồm hai vòng: Vòng ngoài có 960 cánh, vòng trong có 12 cánh.

    Còn ba Luân xa ở gần bộ sanh dục của nam và nữ; bên Chánh đạo không cho phép động tới. Số cánh của những Luân xa nói trên đây vốn do theo Đức Leadbeater tường thuật lại theo sự quan sát của ông trong cuốn ‘Những Trung Tâm Lực của con người, những Luân xa’ (Les centres de force dans l’homme – Les Chakras).

    Nhưng theo vài cuốn kinh sách Ấn Độ giải về Cung-đa-li-ni thì số cánh của vài Luân xa không in như lời Đức Leadbeater nói.

    Tỷ như cuốn Le Yoga Koundalini Oupanishad nói về 16 cánh của Luân xa ở tại trái tim thay vì 12 cánh, còn hai cuốn Dhyānabindou Oupanishad và Shāndilya Oupanishad nói rằng Luân xa ở tại rún có 12 cánh thay vì có 10 cánh và có cuốn nói Luân xa ở tại Nê hườn cung có 1.000 cánh. Nhưng mà điều nầy không trọng hệ mà cũng không có chi là lạ. Bởi vì số cánh của Luân xa tùy thuộc quốc gia, dân tộc mà thay đổi và cũng tùy theo năng lực của người quan sát nữa.

    NHỮNG LUÂN XA CỦA CÁI VÍA [[1][1]]

    Mười Luân xa của cái Phách đối chiếu với mười Luân xa của cái Vía. Chúng nó ở khít với nhau mặc dầu Luân xa của cái Vía thuộc về bề thứ tư (4è dimension).

    HIỆU QUẢ CỦA SỰ MỞ NHỮNG LUÂN XA CỦA CÁI PHÁCH.

    Khi Luân xa của trái thăng (Centre splénique) mở ra thì con người nhớ mày mạy, trong lúc ngủ mình đi chỗ nầy, chỗ kia, hoặc bay trên không, cái cảm giác rất thích thú. Luân xa ở tại rún hoạt động thì con người cảm biết ở trong xác thịt những ảnh hưởng của cõi Trung giới và cũng biết một cách mơ hồ ảnh hưởng nào thân thiện và ảnh hưởng nào có vẻ cừu địch; hay là những chỗ nào vui vẻ, những chỗ nào buồn bực nhưng không hiểu tại sao.

    Luân xa ở tại trái tim giúp cho con người tự nhiên biết được sự vui hay sự buồn của đồng loại và có khi nhờ đồng cảm mà cũng vui buồn, cũng đau đớn trong thân mình in như người láng giềng vậy. Nhờ Luân xa ở tại cuống họng con người nghe được những tiếng thì thầm bên tai bảo cái nầy cái nọ, đủ thứ. Có khi con người nghe được âm nhạc vô hình. Luân xa nầy mở ra trọn vẹn thì con người có Thần nhĩ. Luân xa ở giữa hai chơn mày mới mở ra thì con người thấy trước mặt những cảnh vật, những đám mây có màu sắc. Có khi thấy người ta hiện ra. Chừng mở ra trọn vẹn thì con người thấy rõ những sanh vật thân hình làm bằng chất Dĩ thái, như các hạng Tinh tú cũng gọi là Ngũ hành (Esprits de la Nature). Cũng thấy được những vật để cách vách – hoặc chôn sâu dưới đất.

    Luân xa nầy giúp cho con người có quyền năng làm cho một vật nhỏ như nguyên tử lớn ra cả triệu lần đặng quan sát. Luân xa ở Nê hườn cung hoạt động tột bực rồi thì con người muốn xuất hồn ra khỏi xác chừng nào cũng được và sau khi hoạt động ở mấy cõi cao rồi lúc trở về nhập xác nhớ hết những điều đã làm, đã thấy, đã nghe, không sót một mảy. Đây có nghĩa là ngày cũng như đêm, đêm cũng như ngày, Tâm thức không hề bị gián đoạn. Còn người thường lúc ngủ thì chiêm bao mộng mị, chừng thức dậy không nhớ chi cả. Muốn mở những Luân xa thì phải nhờ tới luồng hỏa, mặc dầu có nhiều phương pháp khác để mở Thần nhãn, Thần nhĩ và xuất hồn ra khỏi xác.

    HIỆU QUẢ CỦA SỰ MỞ NHỮNG LUÂN XA CỦA CỦA VÍA

    Luân xa ở chỗ xương mông là nơi chứa luồng Hỏa. Trước nhứt ta nên biết rằng cái Vía con người giống như một đám mây mù chưa tự hoạt động được; nó có một Tâm thức mơ hồ, không làm chi đặng và không biết một cách chính chắn hoàn cảnh ở chung quanh nó ra sao.

    Luồng hỏa khởi sự đi, nó vô Luân xa thứ Nhì ở tại trái thăng, nó thêm sức cho cái Vía. Thể nầy trở nên mạnh mẽ, hoạt động dễ dàng, nhưng con người chưa biết rành rẽ những điều nó đã gặp ở cõi Trung giới.

    Luồng hỏa đi qua Luân xa ở tại rún, làm cho trung tâm lực nầy hoạt động. Con người cảm biết tất cả những ảnh hưởng ở cõi Trung giới nhưng điều nầy không được rõ rệt như chuyện đã nghe và đã thấy nhờ con mắt và lỗ tai của xác thịt.

    Luân xa ở tại trái tim khi mở ra rồi thì cho con người cái quyền năng tự nhiên biết được chút ít ý niệm về tình cảm của các sanh vật ở cõi Trung giới.

    Luân xa ở tại cuốn họng giúp cho con người nghe được trên cõi Trung giới giống như lỗ tai ở cõi Trần.

    Luân xa ở chính giữa hai chơn mày mở ra thì con người có Thần nhãn, thấy được nhơn vật ở cõi Trung giới.

    Một khi Luân xa ở tại Nê hườn cung hoạt động đúng mức thì sự sống của cái Vía hoàn toàn phát triển. Con người dùng được trọn vẹn và đầy đủ những năng lực của nó.

    Về hai Luân xa chót nầy có một đặc điểm mà tôi tưởng phải nói ra. Đối với một hạng người thì Luân xa thứ Sáu và Luân xa thứ Bảy dính [[2][2]] với Hạch mũi (Corps pituitaire) và hạch nầy làm một cái cầu để mấy cõi trên thông thương với cõi Trần.

    Còn đối với một hạng người khác thì Luân xa thứ Sáu ở chính giữa hai chơn mày dính Hạch mũi, còn Luân xa thứ Bảy ở Nê hườn cung thì dính với Hạch trán (Glande pinéale). Những hạng người nầy thì dùng Hạch trán làm đường thông thương trực tiếp với Hạ trí, khỏi cần cái Vía làm trung gian – nghĩa là đi ngay tới cõi Hạ thiên – (bốn cảnh thấp của cõi Thượng giới) mà không đi qua cõi Trung giới.

    Mấy công việc nầy đây làm xong là nhờ luồng hỏa Cung-đa-li-ni [[3][3]] . Thế nên ai ai mới học Đạo nghe nói đến luồng hỏa đều muốn làm sao khươi nó cho được vì thấy nó rất ích lợi. Nhưng ít ai tưởng những tai hại thảm khốc của nó gây ra nếu người ta chưa có đủ những điều kiện bắt buộc.

    NHỮNG ĐIỀU KIỆN PHẢI CÓ TRƯỚC KHI KHƯƠI LUỒNG HỎA

    Theo Chánh đạo, nếu muốn khươi luồng hỏa thì phải có đủ những điều kiện sau đây :

    1)- Trường trai, tuyệt dục, không hút thuốc, không uống rượu. Trường trai tuyệt dục mà còn hút thuốc cũng không được. Ý chí cứng cỏi như sắt đá đặng điều khiển luồng hỏa.

    2)- Tánh tình thật tốt, tức là tư tưởng, ý muốn cho đến lời nói và việc làm đều trong sạch.

    3)- Thân thể tráng kiện. Tuổi cao mà khỏe mạnh không phải là một sự trở ngại.

    4)- Phải nhờ một vị Chơn sư chỉ bảo hay một vị Cao đồ thay mặt cho ngài coi chừng.

    Tại sao những điều kiện lại khó khăn như thế. Bởi vì người ta không biết những sự nguy hiểm của luồng hỏa.

    NHỮNG TAI HẠI CỦA LUỒNG HỎA

    Những người không có một chút chi kinh nghiệm về luồng hỏa thì không hề biết sự nguy hiểm của nó là thế nào. Không ai ngờ rằng một khi luồng hỏa khởi sự đi, thì nó đốt tiêu tất cả những cái chi xấu xa nhơ bợn mà nó gặp dọc đường. Nếu con người tấm lòng chưa được tốt, còn say mê bóng sắc thì Cung-đa-li-ni sẽ đốt cháy thịt xương, hại cho mấy Thể cao siêu và có khi cái nguy hại còn dây dưa tới nhiều kiếp sau nữa.

    Nếu thay vì đi lên thì luồng hỏa lại đi vô trong và đi xuống thì nó kích thích ba Luân xa ở gần bộ sanh dục. Chừng đó con người sẽ thành một con quỉ ngày đêm chỉ khao khát ái ân và không bao giờ thỏa mãn dục tình được.

    Có vài phái, lẽ tự nhiên không thuộc về phe Chánh đạo, dạy học trò mở ba Luân xa nầy đặng có một vài phép thần thông nhỏ mọn. Nhưng cái lợi không bù được cái hại. Các vị đệ tử nầy không ngăn được lòng tà niệm. Chắc chắn quí bạn độc giả đã thấy nhiều bằng chứng trong những chuyện kiếm hiệp Tàu rồi.

    Một tai hại lớn lao khác là việc xử dụng ba Luân xa đó sẽ làm cho con người liên lạc với một giống mà đường tiến hóa còn thấp thỏi, và đáng lẽ con người không nên tiếp xúc với họ. Họ không biết luân lý, đạo đức, thiện ác là gì đâu. Con người sẽ bị họ sai khiến, kềm chế, e cho nhiều kiếp sau mới mong thoát khỏi tay họ.

    Mà dầu tránh được những tai hại mới kể đây, sự mở luồng hỏa sớm quá tăng gia tánh kiêu căng tự phụ và tham lam ham hố của con người đến cực điểm mà con người không tưởng tượng nổi đâu. Nếu đinh ninh rằng mình làm chủ được những lực thiên nhiên còn tiềm tàng ở trong mình thì tỏ ra còn Vô minh lắm.

    Con người chưa chuẩn bị mà muốn khươi luồng hỏa thì không khác nào một đứa trẻ thơ lấy cây đập trái mìn chơi. Chừng nó nổ lên thì đứa nhỏ tan xác.

    PHẢI HỌC TẬP VỚI CHƠN SƯ MỚI ĐƯỢC AN TOÀN

    Bao nhiêu tai hại kể trên đây cũng đủ để chứng tỏ rằng con người phải học tập với Chơn sư mới được an toàn. Bởi vì Chơn sư có Huệ nhãn, ngài thấy được cách đi của luồng hỏa. Nếu ngài xem thấy học trò làm sai thì ngài chỉ cách sửa đổi tức khắc. Tôi tưởng cũng phải nói thêm, đừng lầm rằng luồng hỏa đi vô Luân xa thứ Nhì rồi tới Luân xa thứ Ba v.v. . . Chẳng phải thế, tùy theo người luyện tập thuộc về Giống dân nào và Cung nào, thứ Nhứt hay Thứ Ba, Chơn sư mới chỉ cách dẫn luồng hỏa vô Luân xa nào trước, Luân xa nào sau và để luồng hỏa ở tại Luân xa đó bao lâu. Luồng hỏa có bảy thứ thì phải mở bảy lần. Sau khi đệ tử có Thần nhãn rồi Chơn sư mới dạy đệ tử quan sát cách nào cho khỏi lầm lạc bởi vì ở Trung giới những số đều thấy lộn ngược và Nhơn vật đều có thể thay hình đổi dạng liền liền. Mấy chuyện này đâu phải là việc dễ dàng; mà cũng còn nhiều điều khác nữa. Hồi mới có Thần nhãn nói ra một trăm điều đã thấy đều trật hết 98 rồi.

    TÔI ĐÃ THẤY NHIỀU NGƯỜI BỊ HẠI RỒI

    Không phải tôi coi theo sách mà nói đâu, chính là tôi đã thấy tận mắt nhiều người bị hại rồi. Xin kể vài trường hợp đã xảy ra lối 30 năm nay.

    1)- Một bà luyện luồng hỏa cách nào không biết mà nổi cơn điên, ban đầu ít sau nhiều. Người nhà phải đem bà lên ở nhà thương điên Biên Hòa rồi chẳng bao lâu bà từ trần luôn tại đó.

    2)- Vài người thổ huyết, trong số đó có người chết, có người thành phế nhơn.

    3)- Lối năm 1935, có một cô gái độ 20 tuổi và một bà mẹ tới viếng tôi tại Tòa soạn Niết Bàn Tạp chí. Hai mẹ con bà đó nói với tôi rằng, vì nghe theo lời của ông thầy dạy cách luyện cho nên bây giờ tại trái tim nóng mãi. Tôi bèn hỏi: ‘Thưa bà ! Sao ông thầy dạy bà không chữa cho bà’. Bà trả lời: ‘Thầy tôi có hốt thuốc cho mẹ con tôi uống mà không hết’. Tôi hỡi ôi [[4][4]] . Tôi có giải nghĩa những tai hại của luồng hỏa, nhưng tôi nói: ‘Thật phải là một vị La Hán mới chữa được’. Tôi có chỉ cách ngăn cho cái hại không lớn thêm ra, nhưng chắc chắn bà nầy tin ông thầy của bà hơn nghe tôi. Bà có cho tôi biết tên ông sư dạy hai mẹ con bà nữa. Trước đó tôi cũng có đọc một quyển của ông viết ra, nên khi nghe tên ông tôi đã hiểu. Mười mấy năm sau, một người nữa, nhưng kỳ nầy là một người đàn ông có học thức, cũng là đệ tử của ông sư đó và cũng nóng ở trái tim. Nhưng vị nầy hữu phước vì có căn lành nên nhờ một vị đạo đồ của Chơn sư cứu khỏi.

    Ba người cũng mang một chứng bịnh do một ông thầy dạy ! Thật là tội nghiệp. Nhưng không rõ trong mấy chục năm rồi có bao nhiêu đệ tử của ông sư đó mang một chứng bịnh như vậy mà không ai hay.

    Tôi cũng còn biết nhiều người nữa vì bị luyện sái cách mà đau bao tử, ốm gầy, càng ngày càng kiệt sức rồi từ trần. Có người bị di tinh rồi cũng bỏ mạng.

    Đây là tự mình hại mình chớ không phải tại số mạng.

    Tôi xin quí bạn nên nhớ kỹ điều nầy: Tất cả những sự luyện tập đều ‘khẩu khẩu tương truyền’ và không bao giờ hai người luyện tập in như nhau. Mỗi người đều theo một cách thức tùy theo lời chỉ dạy của ông thầy. Những điều ghi trong sách là nói tổng quát và bóng dáng, không có Chơn sư hay là một vị Cao đồ giải nghĩa thì sẽ hiểu lầm ngay.

    TẠI SAO ĐỆ TỬ ĐIÊN KHÙNG, CHẾT MÀ ÔNG THẦY VẪN SỐNG

    Tôi đã nghe nhiều lần câu nầy vốn của người bịnh thốt ra: ‘Tại tôi làm sai, chớ thầy tôi dạy trúng’.

    Vậy thì sự thật ở đâu? Tôi tưởng rằng: nếu mấy ông ấy thành công thì mấy ông ấy đã có Thần nhãn, Thần nhĩ và đã biết cách chữa cho mấy người học trò khỏi điên, khỏi khùng, khỏi chết oan uổng và khỏi nóng tại trái tim rồi.

    Mà chúng ta cũng nên nêu câu hỏi nầy nữa: ‘Mấy ông thầy có luyện tập những điều đó trước khi đem dạy học trò chăng? Chúng ta còn hoài nghi về điều nầy.

    Phải chăng các vị học trò đã làm con vật hi sanh để cho ông thầy thí nghiệm những điều của ông đã học ở trong sách mà chính ông ấy không làm chi hết?

    Nếu quả thật như vậy thì đáng thương hại cho cả hai: ông thầy và học trò một lượt.

    Tôi nghiệp cho ông thầy sẽ bị Luật Báo Ứng Tuần Hoàn trả lại cho ông những sai lầm của ông đã làm, và tội nghiệp cho mấy vị học trò tự giết mình một cách oan uổng.

    Tôi nêu mấy gương nầy ra không ngoài mục đích muốn giúp cho người học Đạo nên thận trọng, chớ nên ham những quyền năng phi thường.

    Những phép thần thông là những cây gươm hai lưỡi, làm lợi cũng được, làm hại cũng được. Nếu tánh tình không được tốt thì sẽ dùng những quyền năng đó để hại người và vì vậy mà tự hại mình luôn nữa.

    Không phải có những phép thần thông nhỏ mọn mà được danh đề Tiên tịch. Phải có đủ những đức tánh của Luật Trời qui định. Phải hết lòng lo cho đời thì mới được nhận vào Hội Quần Tiên. Không dứt được mười dây chướng ngại thì chớ trông đắc thành Chánh quả, thoát đọa Luân hồi.

    Xin quí bạn đọc kỹ cuốn ‘Con Đường Của Người Đệ Tử’ và thực hành những lời trong đó trọn vẹn thì cửa Chánh đạo sẽ mở rộng đặng đón rước quí bạn vào.

    LUỒNG HỎA VỤT ĐI THÌNH LÌNH

    Có khi không bị khêu gợi mà luồng hỏa vụt đi lên thình lình, đó là trường hợp ngoại lệ, khi con người đau ốm hay là bị tai nạn; nhưng thật ít lắm.

    Lúc nó đi thì trong mình nóng hực nhứt là trong xương sống nóng rần. Chắc chắn là con người không đủ sức để đem luồng hỏa trở xuống ổ của nó. Nhưng đừng sợ, bất quá đau một chút mà thôi. Luồng hỏa đó lên Nê hườn cung rồi ra ngoài không khí. Con người sẽ mê man trong vài giờ, chừng tỉnh lại có hơi mệt mỏi và yếu sức hơn trước một chút. Một ít lâu thì bình phục như cũ.

    Một nhà Thông Thiên Học có nói với Đức Leadbeater rằng, trong khi ông qua thuyết pháp bên Gia-Nã-Đại (Canada) ông có gặp một người đàn bà không hiểu chi về vấn đề luồng hỏa cả. Nhưng sau khi bà té xuống thang lầu bà hôn mê một ít lâu. Chừng tỉnh dậy thì bà có Thần nhãn, bà đọc được những tư tưởng của kẻ khác và thấy những đồ vật để cách vách. Bà giữ được quyền năng nầy cho tới khi bà từ trần.

    Đức Leadbeater nghĩ rằng: có lẽ trong lúc bà đó té, xương mông bị đụng ngay chỗ luồng hỏa trú ngụ; nó bị dội nên đi lên và mở Luân xa ở chính giữa hai chơn mày.

    Cũng có lẽ một Trung Tâm Lực khác bị kích thích.

    (Sưu tầm từ nhiều nguồn)
     

Chia sẻ trang này