Loading...

Huyền môn lược ký 2

Thảo luận trong 'Sách, tài liệu...' bắt đầu bởi anhdung61, 18/6/18.

  1. anhdung61

    anhdung61 Member

    Tham gia ngày:
    10/5/18
    Bài viết:
    45
    Đã được thích:
    11
    Điểm thành tích:
    8
    Giới tính:
    Nam
    NGUYỄN THỊ THANH LAN

    HUYỀN MÔN LƯỢC KÝ

    SÁCH NGHIÊN CỨU, TRẢI NGHIỆM THỰC TẾ VỀ KHOA HỌC HUYỀN BÍ VÀ TÂM LINH.

    TẬP 2

    NĂM 2010 CANH DẦN

    THAY LỜI TỰA

    Nhiều người bảo tôi: sao không viết Huyền Môn Lược Ký bằng giọng văn “cao” hơn một chút, để cho quyển sách có giá trị hơn - dễ đi vào lòng người tri thức!

    Thưa rằng: quyển sách của tôi viết cho đại chúng, dành cho đại chúng - và đại chúng thuộc về gi ới bình dân... Tôi viết cho những người, vì những người khốn khố những người mà cuộc sống đầy dẫy nạn tai, tật ách và bất hạnh! Những người yếu thân cô thế đến gần như bị “Thượng Đế lãng quên”. Tôi vì họ gióng lên hồi trống kêu oan, cầu cứu. Như chú cóc nhỏ bé kia gióng trống kiện trời.

    Nếu không có người kêu oan, làm chi có kẻ được giải oan. Không có kẻ chịu hy sinh, làm sao có Thánh Lễ?

    Tôi viết bằng lối văn tự sự chân phương - như dẫn dắt người đọc bước đi trên con đường đời mộc mạc, ngắm cái Quả kết ra từ cái Nhân của vạn vạn sinh linh - Để tự nhận chân: quả đắng hay ngọt cũng tự tay ta gieo trồng mà co, mùa bội thu cười khóc. trách gì ai!

    Nói theo nhà Phật: chỉ cần ta biết sám hối, thành tâm sám hối, gieo Nhân lành sẽ diệt được Nghiệp dữ. Tôi là người tự nguyện hỗ trợ - trong một thời gian nào đó, trong một chừng mực nào đó, rồi thôi!

    Khi bạn đã đứng lên được, xin hãy cứ bước đi - đừng quay lại sau lưng. Bước những bước vững chãi đi về phía trước! Bạn đã nhận được sự dìu đỡ tự nguyện, thì xin hãy phóng tâm vì người khác - những người bất hạnh hơn mình, đang lặng lẽ chìa đôi bàn tay cầu cứu và chờ đợi!

    Đừng ngoảnh mặt quay lưng như cây cột chỉ đường kia, mang trên mình những dãy số mà không hề đi qua, từng trải...

    Không như những nhà thuyết lý biện chân rao giảng cho những giáo lý trừu tượng cao xa ngoài tầm tay với - Tôi chỉ là “Người - Thừa - Hành” của nhà Phật, trộm ấn Tiên phong đem vá víu cuộc đời... thêm một viên gạch kê cho bằng khập khiễng, một tấm lòng sẻ chia cho vơị bớt đau thương.

    Không cứ là Đạo Giáo, tín ngưỡng nào nếu có những tôn chỉ, giáo điều đặt đạo đức và nhân tâm con người lên hàng đầu - đó là Chính đạo! Tôi cúi đầu tuân phục trước những người và Đạo Pháp vi diệu, cao thâm ấy! Cũng như tôi sẵn sàng ngồi xuống vuốt ve ngon cỏ dại kia nếu chúng dịu dàng êm mát bàn chân, nhẹ nương cho một phút ngã lưng của người khách độc hành đường xa mỏi gối... Hơn trầm trồ thán phục cây cố thụ hùng vĩ vươ n tàn che một khoảng đất rộng - nơi mà dưới chân nó ngay một ngọn cỏ dại cũng khó tồn sinh!

    Trong thời buối “thế đạo suy đồi” này, nếu chỉ bi ết lo Tu thôi thì chỉ là phiến diện! Trần ai oan khuất trùng trùng, nếu cứ cắm đầu lo Tu phỏng có ích gì?! Cao lắm là cứu được bản thân mình, lánh đời như thế chẳng phải là vị kỷ lắm sao!

    Bụi trần vương khắp nẻo, ta e sợ vướng bụi trần rồi lấm lem thần xác, ta trốn vào một góc lo Tu! Thế thì khác nào pho tượng bằng đất nung kia chỉ nhắm mắt thiền định đâu biết chung quanh ta đau khố ngập tràn.

    “Một suối Giải oan bé cỏn con Muôn vàn oan khuất vẫn đang còn Giải được oan không, ơi suối nhỏ Đó đây da diết tiếng kêu oan!"

    “Suối Giải oan” - thơ của Thiếu tướng - Ti ến sĩ Nguyễn Chu Phác, chủ nhiệm bộ môn Cận tâm lý, trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người.

    Ngay một vị Tướng quyền uy cũng thấy mình bé nhỏ và bất lực trước muôn vạn oan khiên, thì liệu có ai đó, giữa chăn ấm nệm êm chợt nghiêng tai lắng nghe hơi gió rét buối đông tàn, thương cho kẻ thân trơn còn đắm mình trong dầy dạn gió sương ngoài ngõ... Bên bàn tiệc xa hoa phù phiếm, có một giây nào đó chạnh lòng nghĩ đến giọt mồ hôi rơi trên vạt sắn, nương khoai?

    Một chút ân cần đủ làm vơi dịu nỗi đau, một nắm tay cảm thông san bằng bất hạnh, một tấm lòng vị tha như suối nguồn An tịnh, cánh hoa Vô ưu nở ra trên nguồn cội úa tàn.

    Mong lắm thay!

    Tháng 11 năm 2009

    Tác giả

    NGUYỄN TH Ị THANH LAN


    LUYỆN TAY NGHỀ

    Trong suốt quá trình chữa bệnh, cho dù được nguồn “ân cứu” từ các Đấng, tôi vẫn luôn mày mò nghiên cứu, tìm hiểu để nâng cao trình độ và phương cách điều trị, sao cho mỗi ngày một hiệu quả hơn.

    Từ ngày anh K (người anh kết nghĩa mà tôi đã kể vào đoạn trước) tặng cho tôi quyển “ATLAS Giải phẫu người” đến nay, tôi chữa bệnh tốt hơn nhiều!

    Qua đó, tôi tập làm quen với các phần chi tiết cũng như cơ quan nội tạng của con người, tập nhìn và đưa hình ảnh vào não bộ, cho đến khi nhìn thuần thục, nhắm mắt lại có thể thấy ngay từng cơ quan một, rõ ràng như đang nhìn hình ảnh trên trang sách. Đưa “bàn tay nhân điện” (là bàn tay vô hình do tôi tự luyện bằng cách nhìn bàn tay của mình) vào tận nơi thăm khám, nghe ngóng cho đến khi tìm thấy trục trặc hoặc Tổn thương. Sau đó đưa điện đi đến chỗ đau giúp luân chuyển máu huyết, thần kinh, tái lập cân bằng hoặc trừ ổ viêm, giảm đau.

    Bằng cách này, bệnh sẽ chuyển nhanh hơn là cứ đưa điện “hú họa” vào chỗ đau đủ thời gian quy định rồi thôi! Tôi tự nghiên cứu, tìm hiểu và thử nghiệm trên nhiều bệnh nhân và nhiều loại bệnh, kết quả rất phấn khởi! Từ đó tôi phổ bi ến kinh nghiệm lại cho các chị em trong nhóm của mình. Tôi sẽ trình bày kết quả với bạn đọc vào chương sau!

    Năng lượng còn gọi là “Điện” được điều khiển theo ý của người chữa trị, bằng luân xa 6 ở giữa hai chân mày 6 (huyệt An đường) chuyển giao cho người bệnh. Đầu tiên điện phải đi qua LX7 ở giữa đỉnh đầu (huyệt Bách hội) sau đó mới lần lượt đưa vào chỗ đau. Điện tùy thuộc vào người điều trị, khi nào “thấy đủ” là thôi, không hạn chế thời gian và cũng không có tác dụng phụ (chỉ có tác dụng tích cực chuyển biến bệnh hoặc không mà thôi)

    Phương pháp sử dụng nhân điện có lợi thế là không cần dùng thuốc hoặc các phương pháp hỗ trợ, không kiêng cữ về ăn uống. Nếu muốn, ta có thể điều trị song hành với các phương thức khác của Đông hoặc Tây y, chỉ làm tăng kết quả, không có ảnh hưởng nghịch chiều, với điều kiện là ta cho điện hỗ trợ vào thuốc uống hoặc công cụ điều trị để cắt tác dụng phụ và tăng tác dụng điều trị!

    Từ “bàn tay vô hình” của các Đấng, tôi đã vận dụng một cách cẩn trọng, sáng suốt và khoa học để tạo nên sức mạnh cho mình, không sa vào chỗ mê tín hay cuồng tín! Bằng cách rèn luyện kiên trì và có hệ thống, tôi đã khám phá và phát triển thêm khả năng tiềm tàng của bản thân, để trở thành một người thầy chữa tốt, tất cả cũng chỉ vì tấm lòng tha thiết muốn bằng mọi cách làm giảm nỗi đau, tật bệnh cho mọi người.

    Bề Trên chỉ cho tôi năng lực, phần tôi phải tự rèn luyện để năng lực đó trở nên dũng mãnh. Ít ra tôi cũng có điều tự hào là không để cho các Đấng “nhắm m ắt dắt tay”. Tôi cũng tự mình bước đi đấy thôi! Và các —nguồn ân cứu” chắc cũng mãn nguyện vì đã chọn một học trò, đệ tử như tôi. Mặc dù những lúc bị “hành căn” nhiều quá, tôi cũng oán thán hay uất hận: “Tội nghiệp nó! Nó làm việc không công lại còn bị đòn hoài nên trở nên lì lợm, bướng bỉnh cũng phải thôi!”

    Nếu khả năng thăm khám cao, khi đưa điện ta có thể thấy ngay kết quả là bệnh hoặc cơ quan bị đau có tác động được hay không, chuyển biến nhiều hay ít, thực như nhìn thấy bằng mắt thường vậy!

    Nhưng nói thì dễ, thực hành lại rất khó. Những người thiếu kiên nhẫn thường không đạt được kết quả khả quan, ngay đến người có tự tin cũng dễ bị lừa. Bởi những kết quả sai lạc do thiếu cẩn trọng hoặc bị “mà mắt” bởi các âm phần án vào cơ quan bị bệnh, tạo ra một “hiện trường giả”! Vì điều này tôi phải lắm phen giở khóc giở cười với những người học viên của mình trong khi quá trình thực nghiệm mỗi người được báo một kết quả khác nhau, không đúng như bệnh tình thực thụ.

    Tác động chuyển biến bệnh tùy thuộc nhiều vào khả năng thăm khám của người thầy chữa. Huynh trưởng nhân điện (A.Ch) vẫn bài xích phương pháp nghe ngóng bệnh của tôi và các chị em bên nhánh mà tôi tự đào tạo, vì không giống cách mà Thầy đã phổ biến. Tôi bào chữa: “Em chữa bệnh từ hai chục năm nay bằng cách của riêng mình, học nhân điện mới chín năm, học để bố sung thêm vậy thôi. Thầy, Tố cũng như các Đấng không rầy rà hay trách cứ gì em, thế là được rồi, nếu em làm sai phương pháp thì bệnh nhân đâu có hết bệnh!”

    Quả thế thật! Từ ngày học thêm nhân điện tôi chữa bệnh ngày một tốt hơn, có ngày tới ba mươi bệnh nhân. Chiều tới xe máy để chật sân nhà, người bệnh ngồi chờ tới lượt. Điều tuyệt vời mà tôi được kế thừa từ Tố, Thầy nhân điện là phương pháp chẩn và chữa bệnh gián tiếp qua hình ảnh và qua điện thoại: dù ở xa, chỉ cần nghe tiếng nói của bệnh nhân, tôi hỏi bệnh, bảo bệnh nhân trụ thần nghĩ đến chỗ đau, yên lặng và nhắm mắt. vậy là tôi nghe báo động từ các cơ quan tương ứng của mình bằng nhiều cảm giác khác nhau: đau nhói từng cơn, co giật nhẹ ho ặc khó chịu, đau “lâm râm” hoặc căng tức bất ốn. khi chuyển điện vào chỗ đau, tác dụng không thua gì chữa trực tiếp!

    Có điều buồn cười là đôi lúc chẩn báo đau có tính cách đối diện: bệnh nhân đau mắt trái tôi được báo ở mắt phải, hoặc lỗ tai, mũi, miệng hay răng... Thường lúc kiểm tra lại, tôi phải đặt mình vào vị trí đứng ở sau lưng bệnh nhân, thì khi chữa điện mới đưa vào đúng chỗ đau!

    Chữa gián tiếp còn một điều khó nữa là cả người điều trị và bệnh nhân đều phải tập trung cao độ, chung quanh không được có tiếng ồn hoặc hình ảnh chuyển động làm cho bệnh nhân bị phân tâm. Người thầy chữ a cần đạt đến độ “ngưng thần” và “truyền thần” tuyệt đối! Chỉ cần thiếu tập trung là điện đưa đi bị gián đoạn, không có kết quả khả quan.

    Khi bệnh nhẹ và sắp khỏi, bệnh nhân đã quen tập trung nhận điện, tôi hẹn giờ và để bệnh nhân tự nhận điện một mình, không sử dụng điện thoại nữa! Để trừ hao, tôi hẹn bệnh nhân ngồi nhắm mắt trụ thần nghĩ đến chỗ đau trong năm phút, thế là xong!

    Cách điều trị có kết quả tốt nhất là tôi được tiếp xúc thăm khám bệnh nhân một lần. Lúc đó tôi hay hỏi lần khân: “Anh (hay chị) bao nhiêu tuổi, làm nghề gì? Con cái, gia đình thế nào? Hoàn cảnh có đủ ăn hay không? Sinh ho ạt và làm việc nhẹ nhàng hay nặng nề? Bệnh phát bao lâu, diễn biến thế nào? Đã điều trị ở đâu, kết quả ra sao?”. Từ đó quá trình chẩn đoán và điều trị dễ dàng hơn, dựa vào hoàn cảnh, tâm lý và chế độ sinh hoạt của cá nhân người bệnh!

    Tôi rất mê nghiên cứu, tìm hiểu về “chuyên ngành” của mình, ở đâu có tài liệu về bệnh là tôi tìm tới, đem về đọc, tự tìm hiểu và phân tích rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Ngặt nỗi trình độ thông minh có hạn và trí nhớ thì trì trệ nên đọc xong rồi chữ nghĩa bay đâu mất, tôi chẳng còn nhớ được mấy!

    Danh ngôn có câu: “Cái đầu không trí nhớ như một mảnh đất thiếu đồn binh”. Tôi vẫn tiếc: nếu thông minh và có trí nhớ hơn một chút, chắc sẽ chữa bệnh giỏi hơn nhiều!

    Sự hết lòng của tôi làm cảm động các Đấng - nên tôi cứ như người “Thầy chữa” thuần thục, thăm khám bệnh và điều trị đều tốt! Những gì tôi nhìn thấy qua những cuộc thăm khám bằng con mắt của tâm linh làm tôi hết sức ngạc nhiên.

    Người vừa qua một cơn nhồi máu cơ tim khi tôi cấp cứu năm phút sau thì tỉnh lại, bị liệt nửa bên người! Tôi chữa thêm một lần nữa, cử động được tay chân. Trong suốt thời gian hơn mười ngày sau người bệnh vừa đi Bác sĩ vừa điều trị thêm bằng nhân điện, khi thăm khám tôi thấy quả tim như một quả bóng bị non hơi màu nâu sẫm (không đỏ và tươi nhuận như bình thường) sờ vào có cảm giác mềm nhão và xôm xốp chứ không căng chắc, no đầy.

    Có người bị chứng giãn ruột, nhà ở tận Nam Định, là Mẹ vợ của bác sĩ Cự - Người nhà mang một tấm ảnh cho tôi chẩn bệnh và liên lạc bằng điện thoại!

    Khi chẩn bệnh, tôi cho “ngón tay nhân điện” vào cổ họng rồi lần xuống thực quản, bao tử, vô đường ruột. Đến đoạn cạnh cuống rốn tự nhiên thấy ngón tay bị hẩng một khoảng độ chừng năm phân. Tôi hỏi gia đình bác sĩ, được xác nhận là đoạn ruột bị giãn trong ảnh chụp ở bệnh vi ện nằm đúng như tôi đã chẩn.

    Phần ruột bình thường ngón tay lần vào chắc và đầy, đoạn bị giãn lại giống như phần ruột đã bóc hết niêm mạc bên trong, còn trơ lớp da ngoài! Lần đó, tôi chữa được một tuần thì bà cụ hết đau bụng và ăn uống trở lại bình thường!

    Ơ tại chỗ bị đau như khớp hay cơ bắp chẳng hạn, tôi thấy điện không đi qua được! Đến đó thì dòng điện bị chững lại hoặc lướt vòng bên cạnh chỗ đau đi xuống.

    Những lúc như thế tôi cho bàn tay nhân điện xoa vuốt nhẹ nhàng rồi mới kích thích cho các mạch máu lưu thông. Nếu thấy điện đi xuyên qua chỗ đau được, tôi biết chắc chắn sẽ gi ảm đau trong lần điều trị đó, bằng không thì thua!

    Trong quá trình chữa bệnh, tôi linh động tìm mọi cách để đạt kết quả như ý muốn. Phương pháp chữa gián tiếp hay truyền thần có điều hay là: nếu trụ thần thực vững, ta có thể điều khiển bệnh nhân theo một tư thế phù hợp để dễ nhận và luân truyền dòng điện.

    Ví dụ: Qua điện thoại, nếu người bệnh nặng không thể ngồi dậy được, tôi chuyển thần thức của mình đến bên cạnh dìu bệnh nhân ngồi lên và đưa tay chuyển điện vào đúng nơi cần thiết.

    Khi cần phải học hỏi một điều gì đó, tôi không thể nào ghi nhớ được gì cho ra hồn! Loay hoay đến khố sở, tự mắng mình: “Ngu gì ngu dữ vậy trời!”. xong rồi vứt sách đâu mất - Vậy mà đến khi cần thiết, những kiến thức từ đâu tuôn ra chẳng biết, khiến ai nghe cũng phải khen! Lúc khác, cái đầu tôi đặc sệt, chẳng nảy ra được chút gì, hình như nó chỉ gi ỏi khi cần thiết mà thôi, ngoài “chuyên môn” ra thì tôi “dốt đặc”!

    Các con tôi luôn phải than van về trí nhớ kém cỏi của Mẹ. Bé Chi, con gái út mười lăm tuối của tôi, ngay từ lúc chín, mười tuối đã là “bộ óc bố sung” của Mẹ: bé có thể nhớ danh dách hơn một chục số điện thoại, từ di động tới điện bàn. Hễ tôi cần tìm vật gì cứ hỏi, bé Chi nhớ ngay chỗ đặt vật ấy! Mãi rồi tôi có thói quen ỷ lại: ‘Chi, nhớ lời Bà ngoại dặn Mẹ nghe! ” hoặc “Sáng thứ ba tuần tới nhắc Mẹ đi họp Hội Thơ”, “Mở máy tính cho Mẹ đánh chữ coi Chi!”, “Chuyển kênh dò sóng truyền hình cách nào, Chi”.

    Con bé thì cứ như một chuyên gia có hạng, mày mò, khám phá các chức năng của máy móc, vật dụng trong nhà, để rồi khởi động sẵn sàng dành cho Mẹ...

    Phải chăng khi các Đấng chuyển Điển về nh ập vào thần thức của tôi đã làm cho trì trệ khả năng tư duy của bản thân, để nó trở nên ù lì, chai cứng dần. và giống như người bệnh quen thuốc, nó chỉ linh hoạt khi có Điển “nhập thần”.

    Từ chiếc Kim tự tháp nhỏ xíu mà chúng tôi bắt đầu học sử dụng từ lớp sáu - Ti ến lên một bước, tôi có K.T.T vô hình của bản thân (K.T.T tượng trưng cho năng lực của não bộ: năng lực tập trung, năng lực điều khiển, là khả năng hợp nhất với các Đấng). K.T.T giống như một “bảo bối” của người “Hành giả nhân điện”, cùng với năng lực trợ cứu của Thầy, Tổ!

    Nếu một người bệnh có “tà nhập”, chúng tôi dùng KTT bắt nhốt các âm vong, xong chuyển điện giải tà phép, rồi sau đó mới bắt đầu quá trình chữa bệnh. Bệnh do “trúng tà”, nếu không giải hết tà phép ra, ta không tài nào chữa được, bệnh còn trở nặng hơn do các thế lực tà chống bệnh hóa ra bốn, năm bệnh khác!

    Đến lúc bệnh đã quá nặng, đưa tới tôi, tôi chữa được cũng “trần ai”, và bị “đau thế, đau trả” rất dữ.

    Tuy KTT vô hình nhưng năng lực tác dộng dõng mãnh lắm, tùy thuộc vào khả năng tự khám phá và rèn luyện của bản thân. Người thầy chữa bệnh bằng nhân điện có giỏi hay không là do tự rèn luyện hơn được truyền dạy từ thầy. Do đo cùng một cấp lớp, có người này giỏi hơn người khác, tất cả đều do “cái Tâm” mà ra!

    Tôi luyện được nhiều cách sử dụng từ KTT: phủ trường bảo an cho bệnh nhân và giường nằm, phòng ngủ hoặc toàn bộ căn nhà (sau khi đã trục hết âm vong), cách giải phần âm, binh gia, xóa lệnh phù. và cách điều trị, đối!

    Trong các loại bệnh, tôi sợ nhất là loại do phần âm đưa điện luân chuyển theo ý mình: xoa vuốt, day ấn, dẫn lưu máu huyết, thần kinh hoặc cô lập mầm bệnh, triệt tiêu nhập vào phá, rồi “đau nam chữa bắc”, được người nhà đưa đến thầy bùa, thầy Pháp. Hết thầy này đến thầy khác, mỗi vị thầy án vào cơ thể đạo bùa cùng với mười hai binh gia (nếu bệnh nặng thầy cho hai đội - hai mươi sáu binh!). Nhiều đạo binh vào trong cơ thể chống phá lẫn nhau, thể xác con người trở thành bãi chiến trường, lúc đó, thầy cao tay cũng còn phải sợ!

    Tôi đã nhìn thấy nhiều bệnh nhân như vậy: xét nghiệm đủ các nơi vẫn không tìm ra bệnh. Rồi bác sĩ dựa theo chứng mà điều trị, thuốc uống vào không có tác dụng, hoặc có nhiều tác dụng phụ như: rối loạn dạ dày, gan, thận. Gây chứng chóng mặt, hoa mắt, nhức đầu ù tai, buồn nôn, đau bụng, phù nước... Ôi thôi đủ chứng, đủ tật- một vi khuẩn. Còn nhiều phương pháp mà tôi không tiện kể với các bạn ở đây. Xin hẹn lại một dịp khác, giờ xin chuyển sang đề mục mới vậy nhé!


    THỰC HÀNH CỤ THỂ (09)

    Cô T. (ở kế bên nhà) có đứa con gái nhỏ lúc đó chừng ba, bốn tuổi. Suốt từ lúc sơ sinh đến giờ, có bệnh lại đưa sang tôi.

    Mấy ngày liền, bé đòi Ba bế lên đặt ngồi trên trụ cổng trước nhà chơi, độ vài lần như vậy thì bị - nói nôm na là “bị ph ạt”!

    Ông bà xưa nói hai bên trụ cổng có hai vị Th ần Thanh Long - Bạch Hổ canh gác; con bé lên c ơn, cứ gi ật nảy mình, khóc thét lên từng hồi ra vẻ hốt hoảng kinh sợ lắm!

    Tôi cho điện trấn an thần kinh thì bé hết, về nhà ngủ lại bị. Đến nửa đêm cô T phải mang cháu sang nhà tôi, cháu mới bình ổn trở lại và ngủ ngon tới sáng! Cô T người không có bệnh gì, nhưng nước da tái mét như người bị bệnh trầm kha, ốm chỉ còn da bọc xương, tôi khuyên nên đi bệnh viện xét nghiệm, sợ bị lao. về sau sang tôi chẩn bệnh mới hay bị tà nhập!

    Sau khi đẩy phần âm và tà khí ra hết, tôi cho điện bình ổn cơ thể, cô T dần khỏe mạnh, “có da có thịt” trở lại. Cô T theo học nhân điện, nay trở thành người chữa bệnh giỏi và có năng lực về tâm linh cao!

    Cậu Phong (nhà ở cổng chợ Hiệp Thành) - người không có bệnh gì, tự dưng không ăn và ngủ được suốt hơn ba tháng. Bệnh viện không chữa được trả về chờ chết, người chỉ “còn da bọc xương” với hai hố mắt thâm quầng, tay chân run lẩy bẩy và hay bị ngất xỉu, khuôn mặt ai nhìn thấy cũng phải giật mình.

    Tôi chẩn thấy Phong bị tà án vào, tôi giải tà xong rồi cho điện vào làm cho ngủ, làm ăn được! Cậu Phong về nhà lúc mười giờ sáng, lăn ra ngủ một mạch đến ba giờ chiều, tỉnh dậy đòi Mẹ mua chuối cho ăn. Phong ngồi ăn hết một nải chuối hai kí, cả nhà lo, cứ sợ trúng thực vì đã lâu không ăn được gì!

    Tôi chữa thêm một tuần thì cậu Phong ăn ngủ bình thường trở lại, có điều đôi bàn tay lúc nào cũng run! Tôi xin thầy Hải Thượng về chẩn, thầy nói Phong bị nhiễu “đám rối thần kinh dương”, có thể do một thời gian dài không ăn ngủ được, bệnh này rất khó hồi phục, chỉ cầu may khi khỏe mạnh bình thường trở lại sẽ hết.

    Tính đến nay đã mười lăm năm, cậu Phong vẫn còn sống và khỏe mạnh ở chợ Hiệp Thành!

    Cô H. (người Tàu lai ở chợ Hiệp Thành, người tôi đã kể vào quyển một), về sau lấy chồng, có đứa con trai sáu tuối! Một buối chiều H đưa con lên nhà tôi bảo: “Con em bị tà nhập tháng rưỡi rồi đi khắp nơi, bệnh viện nào cũng thua! Cứ sốt rồi rét, nói năng lảm nhảm đau nhức khắp người và bỏ ăn bỏ ngủ”!

    Tôi trụ thần nhìn, thấy một vong quỷ đàn ông tuối chừng năm mươi, người chỉ còn bộ xương, trần truồng đứng đó! Tuy ngạ quỷ nhưng vong rất hiền, không có vẻ gì hung dữ.

    Tôi tả nhân dạng, cô H chẳng biết là ai! Tôi giải tà và cầm sốt, rét, làm cho cháu ăn được, ngủ được. Hôm sau đưa hai Mẹ con vào nhà, tôi tiếp xúc với vong hồn, chỉ nói được một câu: “Tôi tên Tám!”, tuối tác, vợ con nhà cửa không biết. Vong ấy bảo mình là anh cô H., nghe vậy H. hứa mai sẽ đem ảnh người tên Tám cho tôi nhận diện!

    Cô H về, lúc ấy trời đã sụp tối, tôi đang đứng bên hông nhà, sực nghe sau lưng có tiếng nói: ‘Thưa cô Hai!”. Giật mình quay lại, tôi thấy vong tên Tám: ‘Xin cô có gì cho tôi ăn với, tôi đói!”. Tôi vào nhà, đem ra gói bánh ngọt, vong đứng ăn từ tốn, nhẹ nhàng, xong lại nói: ‘Phiền cô Hai cho tôi ly nước”. Thấy vậy, tôi hứa mai sẽ mời về ăn cơm- Rồi tôi quên khuấy đi mất!

    Mãi đến chiều tối hôm sau, lúc tôi đang nấu thức ăn, có một cọng đậu cove đang xào trong chảo rơi xuống đất, xãy thấy có một chiếc bóng chạy vào nhặt lấy ăn - ra là vong tên Tám! Tôi xin lỗi và dọn cơm ra mời vong ăn (lúc đó, tôi chỉ ăn cơm một mình). Tên Tám vừa ngồi xuống, ngước lên nhìn tôi nói: “Cảm ơn cô Hai!”. Đôi mắt xanh lè vừa lóe lên, theo phản xạ tôi tống cho một đấm, vong ấy văng ra ngoài! Bước vô nhà, vong nói: “Tôi đâu có làm gì, sao cô Hai đánh tôi?”. Tôi xin lỗi: “Tại ông nhìn tôi làm tôi sợ, thôi ông cứ ăn một mình rồi đi nghe”. Lúc đó tôi như người sắp xỉu, bế tim, lê được vào buồng ngồi thiền độ năm, mười phút sau mới trở lại bình thường!

    Những âm vong ngạ quỷ, yêu tinh có đôi mắt màu đỏ hoặc màu xanh. Nếu ta tình cờ nhìn thẳng vào mắt sẽ bị khí âm truyền sang làm cho loạn thần, bế tim ngay lập

    tấm ảnh lúc còn sống mập mạp và tươi cười, tôi lắc đầu: “Không phải người này!” Cô H đưa tấm ảnh lúc chết nằm trên giường, nhìn vào giống y hệt âm vong, không sai khác chút nào! Tôi xin Mẹ về trợ Điển để cho vong tiếp xúc với cô H.

    Mẹ về hỏi vong vẫn không biết gì hơn! Mẹ giải thích: “Những vong chết do bệnh dữ hoặc nạn tai, trước lúc chết đau đớn quằn quại, thườ ng vướ ng nghiệp ngạ quỷ thành vong điên, không còn nhớ gì, đa số là hồn xiêu phách lạc”.

    Mẹ lấy tấm ảnh đưa tới trước mặt, đặt bàn tay lên trán tên Tám, buông ra, vong tỉnh ngay lập tức khai tên tuổi đàng hoàng, và nhắc lại những điều từ trước chỉ có hai anh em biết! Cô H tin đúng người, xin tôi cho cúng chiêu đãi âm vong một lần để chuyển vào Chùa tu (nghe chị em tôi thuyết phục, vong đã bằng lòng đi tu!). Âm vong xin được ăn những món mình thích lúc còn sống.

    Ngày sau lúc sáu giờ tối, cô H cùng tôi cúng một mâm cơm. Cô H. mua một chiếc áo giấy màu đà, tôi bảo H. đưa ra tận ngoài ngỏ đốt! Vía tôi thấy tên Tám bước vào nhà xỏ áo, cài khuy, trên áo có một cà vạt màu xanh dương. Tôi hỏi thì H. xác nhận đúng là trên áo có cà vạt xanh! Từ đó tôi mới tin rằng âm hồn sử dụng được những đồ “hàng mã” và tiền, vàng âm của người trần cúng cho!

    Từ kinh nghiệm này, về sau mỗi tháng tôi cúng chiêu đãi phần âm một lần, mời các âm phần từ khắp nơi tụ về tức.

    Qua ngày sau, H đem ảnh người tên Tám lên, nhìn để phân phối lộc thực. Trước khi cúng cho ăn, tôi án chữ Vạn của nhà Phật lên trán từng âm vong một, vừa dụ dỗ vừa đe nẹt: “Phần âm nào có An Phật ở giữa trán mỗi tháng sẽ trở về đây lảnh lộc thực một lần, có ăn đầy đủ trong một tháng, không còn bị đói rét hay thiếu thốn nữa! Ăn xong phải tu tỉnh tìm đến đình Chùa miếu mạo mà nghe Kinh để sớm tiêu tan nghiệp chướng. Nếu ai phá khuấy chọc ghẹo mọi người thì An Phật sẽ hành cho đau đớn, nghe chưa!”

    Họ có ăn không thiếu đói thì mới biết tu, ta gọi là “phóng tài hóa thu nhân tâm” vậy mà!

    Phần vong tên Tám, vài tháng sau cô H lên nhà tôi, chưa kịp chào hỏi đã thấy vong một vị sư đầu cạo trọc mặc bộ đồ màu đà bước vào! Vong ấy xưng pháp danh là “Thiện Nhẫn Thiền Sư”, chính là vong tên Tám, biết cô H. tới nhà tôi nên tìm tới chào, đối giọng xưng hô là “Tôi, cô”, không còn “anh anh, em em” như trước nữa.

    Cô Tiến, khi học nhân điện còn ở lớp thấp, thường xuyên bị vong về quấy phá liên tục. Có lần đi chơi Bình Dương hai ngày, vừa về tới nhà đã bị chóng mặt và nhức đầu, nôn mửa rất nặng. Sang tôi chữa bệnh, vừa đưa điện vô ngay lập tức lên cơn nôn gấp, tiếng ụa mửa vang cả nhà, nghe mà phát rùng mình!

    Nghi Tiến bị vong phá, tôi dùng điện giải phần âm,

    Tiến lại ụa dữ dội tiếp. Biết không phải là vong thấp, tôi xuống giọng năn nỉ, xin lỗi và mời ra tiếp xúc, thì ra là một vị Thần ở chân cầu! Tôi bảo: “Tôi xá ngài một xá xin thứ lỗi vì tội sơ ý đã mạo phạm, để tôi bảo em tôi về quỳ giữa nhà lạy ba lạy xin ngài xá tội và rời đi. Để tối nay cô ấy làm ca đêm, có mệnh hệ nào chết bỏ con thì tội lắm!”

    Cô Tiến về quỳ giữa nhà, lạy xong thì dứt hẵn. Lúc đó đã tám giờ ba mươi đêm, đến chín giờ ba mươi Tiến đi làm cả đêm hoàn toàn bình thường, không có chút di chứng nào!

    Vậy đó, kẻ “thấp cổ bé miệng” phải xuống gi ọng năn nỉ, cầu xin nếu không muốn bị bức hại. Lúc đó vong Thần đang ở trong xác, nếu ta xúc phạm thì họ hành xác nặng nề hơn! Chỉ khi nào dụ được họ ra khỏi xác, ta mới bắt được.

    Phải nói là đáng sợ! Thế lực của tà giới tác động lên người trần thế, khuấy đảo hành hà xác trần, các phương tiện y học hiện đại cũng đành bó tay bất lực! Hèn gì có người nằm hết bệnh viện này đến bệnh viện khác mà bệnh vẫn hoàn bệnh.

    Người thiển cận vô tư ỷ lại vào các phương tiện khoa học tinh vi, cho rằng có sức mạnh vạn năng, đâu biết chỉ một cái búng tay của cõi khác đã đủ làm ta khốn đốn.

    Chúng ta, những con người đứng chân trên mặt đất, tưởng chừng “vững như bàn thạch”, nào hay đâu chỉ một trận cuồng phong đá chạy cát bay, những thành quả bao năm gầy dự ng có thể tan thành tro bụi. Loài người bé nhỏ và bất lực trước sức mạnh vô hình của cõi giới khác, chỉ cần liên tưởng đến thế đứng chênh vênh ngoài rìa quả địa cầu đã thấy ngay những lầu các, đền đài cũng chỉ như bọt biển. Nếu mốt mai lực hút của trái đất này không còn nữa, chúng ta sẽ về đâu?

    Đâu phải chỉ một lần “Thế gian biến cải vũng nên đồi”, trái đất này đã bao phen rơi vào cơn ‘Đại biến di”, tiêu tan tất cả để rồi tái tạo lại từ đầu đấy thôi. Chúng ta hiện diện ở đây ngày hôm nay, liệu ngày mai còn có ta không giữa cơn hồi sinh mới, khi vũ trụ rùng mình đối thịt thay da.

    Vẫn còn, còn một “Quy luật bất thành văn”, luật của lẽ công bằng tạo tác và hành xử, luật của “cái Quả sinh ra từ cái Nhân”, không có nhân làm sao có quả!

    Ta gieo một hạt ớt, hạt xoài, mốt mai nên cây trố trái, ra hằng trăm, hàng vạn trái xoài, trái ớt, trái cay đắng hay ngọt bùi cũng là trái ta trồng đấy thôi... Thế thì sao chẳng cân phân để chỉ gieo nhiều quả ngọt, trái lành, gạn đục khơi trong để mai kia dòng trong ta hưởng!

    NGHIỆP THÉ TRẢ VAY (06)

    Ngày xưa, vì gia cảnh khó khăn, tôi đã ba lần đi “kế hoạch” khi vừa kịp cấn thai - về sau, cứ vài tháng tôi lại mơ một lần, trong giấc mơ thấy mình bồng bế đứa con trai chừng sáu, bảy tháng tuổi, cũng khuôn mặt ấy, quần áo ấy! Bé rất ngoan, không hay khóc nhè, khi khó ở trong người chỉ nhăn m ặt tí xíu xong lại cười ngay. Tôi thấy mình lo bươn bả chữa bệnh cho người, bế con đi trần trụi ngoài đường, nay chỗ này mai chỗ khác. Mỗi lần thức giấc tôi ngồi thừ ra suy nghĩ: “Bé Chi con út lại là gái, đâu có con trai sao c ứ mơ hoài, đứa bé ấy là ai?”. Nói đó rồi quên đó, công việc bộn bề cuốn hút, tôi lại quên đi.

    Đến một ngày nọ ba đứa con về đủ trong nhà, tôi lại mơ thấy mình đi chữa bệnh cho người, ở nhà ba anh em mê chơi bỏ mất em bé. Vía tôi thấy mình hoảng loạn khóc la đi tìm con! Hai đứa lớn ngủ nhà trước chạy vào lay tôi dậy hỏi: “Mẹ mơ thấy gì mà la hét dữ vậy?”, tôi kể lại giấc mơ, cháu hỏi: “Mẹ nhớ lại coi có bỏ đứa con nào không?”. Tôi rùng mình sực tỉnh, bèn khấn Mẹ: ‘Nếu đúng như vậy, con xin Mẹ cho mơ thêm một giấc giống y hệt để con tin!”. Liền đó tôi lại mơ: Vía thấy năm, sáu người bệnh tới nhà chờ chữa bệnh - Lúc đó con trai nhỏ của tôi (vẫn là đứa bé ấy) cũng đang tiêu chảy và nóng sốt, trời thì lạnh cắt da! Không kịp nấu nước nóng để pha, tôi đem cháu vô vòi nước rửa vội vàng, xong cho ngồi vào một cái sọt nhựa (loại để đựng quần áo), lo đi chữa bệnh cho người ta. Thằng bé đang bệnh, sốt cũng chỉ nhăn nhó vậy thôi chứ không thấy lên tiếng khóc!...

    Tỉnh dậy tôi nghĩ thương con ngồi ôm mặt khóc một mình. Sáng ra tôi xin Mẹ cho tìm vong bé trai ấy, Mẹ Diêu Trì đưa về một bé trai đẹp như tranh vẽ, hai mắt to, tròn xoe, tóc màu bạch kim, bụ bẫm và xinh xắn như một thiên thần độ chừng ba, bốn tuối!

    Tôi ôm con khóc, xin lỗi vì đã bỏ quên con ngần ấy năm trời... Han hỏi, cháu cho biết mình là “Thiên đồng”, không có tên riêng! Cháu kể mình còn có sáu người bạn, ba trai ba gái ở cùng một nhóm. Do Thái Bạch Kim Tinh điều quản: “Chúng con bay đi, đến mọi nơi. Chúng con ca hát và múa cho hoa nở, cho chim hót và cho mọi người cùng vui.”

    Tôi xin Mẹ cho lập bàn thờ, thờ bé. Mẹ nói: “Nó là thiên thần, không phải âm vong, thờ làm chi!”. Tôi xin Mẹ cho nhận con, và nhờ Mẹ đặt cho cháu một cái tên. Mẹ Quán Am nói: “Thiện Tâm, Thiện Phúc, Thiện Nhân”. Mẹ Diêu Trì thì bảo: “Thiên An!”. Tôi xin Mẹ cho chọn tên bé là Thiên An, và xin cho lễ cúng Cửu Huyền để nhận con.

    Hỏi bé muốn ăn gì, bé bảo: “Con muốn ăn thứ bánh mà các anh chị ăn tối hôm qua!” (Bánh bông lan), tôi muốn cho bé quần áo, giày dép các thứ và nón, dù. Bé nói:

    “Cho bé ba cái nón khác màu để bé tặng ba bạn trai, cho giày có quai hậu để bay không bị rơi, bé không cần dù, bé có cánh quạt mát lắm, không cần dù che đâu!”

    Tôi bày một mâm có gà luộc và bánh trái các thứ, bé hỏi: “Bé đem các bạn về ăn chung có được không?”. Thế là bé đi gọi bạn trong lúc tôi thắp hương khấn Mẹ. Nghe tiếng quạt cánh “xành xạch” sau lưng, quay lại thấy bảy em bé giống y như nhau, có điều ba bé gái tóc xoăn dài, còn 4 bé trai tóc xo ăn ép sát da đầu. Các bé đứng xuống đất thì bước đi bình thường, đôi cánh sau lưng biến đâu mất!

    Tôi bảo: “Các con thử múa chào Mẹ coi nào!”. Ngay lập tức đôi cánh màu trắng lại hiện ra sau lưng, các cháu xếp hàng ngang trước bàn thờ Phật nhún mình vỗ cánh ba lần, xong quay lại phía tôi cũng làm như vậy! Tôi ngạc nhiên chỉ tay vào sau lưng các cháu, Mẹ Diêu Trì ra dấu ngăn lại, không cho tôi lên tiếng sợ cháu ngượng. Mỗi bé

    có một cái đuôi ló ra đàng sau, giống như đuôi cá, màu xanh da trời giống màu áo của bé, không có màu trắng như đôi cánh!

    Từ đó tôi có thêm một đứa con trai - dạo đầu bé còn ngượng nghịu, về sau thì như con ruột trong nhà, có điều những thứ không ăn được bé ăn vào nôn ra thấy mà thương! Đậu hũ kho thịt bé không ăn được, sầu riêng cũng không.

    Có lần bé về, thấy chị Chi đang nằm trong lòng Mẹ, bé đứng nhìn, đôi mắt mở to buồn rười rượi... Biết ý, tôi bảo bé Chi ngồi dậy, vẫy bé lại ôm vào lòng han hỏi, hôn lên trán và vuốt ve âu yếm! Bé bảo ở cõi Trên không có tình, không ai biểu lộ tình cảm với ai hết, chỉ có công việc và mệnh lệnh, cuộc sống tập thể đầy đủ, không thiếu thốn gì cả nhưng không có tình thương yêu: “Bé cũng muốn được Mẹ thương như thương chị Chi vậy!”, nghe con nói mà thương đứt ruột! Hèn nào cõi trên các Đấng cũng muốn xuống trần, mặc dù trần thế đầy cạm bẫy, đắng cay và hệ lụy. Nếu không có tình thương yêu, thì lầu vàng điện ngọc ích chi! Nếu con người sống với nhau lãnh đạm như một cỗ máy biết đi, chắc có lẽ hoa không nở, chim thôi hót, suối không còn chảy nữa và cuộc đời chẳng có

    bên trái, đau đến đi đứng cử động không nổi, độ nửa tiếng đồng hồ sau, cơn đau tự động hết!

    Đêm hôm sau nữa, tôi lại gọi bé Minh Tâm về chữa bệnh và giải nghiệp, cũng bị cơn đau bụng ở phía mình y hệt như lần trươc. Bé Chi nói: ‘Thấy chưa, con bị đau như có ai cầm dao cắt từng đoạn ruột, con nói mà Mẹ không mùa xuân.

    Sinh bé Chi ra, tôi quên bẵng đi mất phần Linh căn tin”

    Bà Barbara Ann Brennan, tác giả cuốn “Bàn tay ánh của bé là Minh Tâm, cứ ngỡ hồn nhập xác trần. Bé Chi lúc nhỏ đau bệnh liên miên, có một chứng nặng nề mà tôi chữa hoài không khỏi suốt mười mấy năm liền: chứng đau bụng! Bé thường lên cơn đau đột ngột, bụng đau quằn quại khiến bé gập người, mồ hôi vã ra, mặt mày tái mét - Cơn đau kéo dài chừng mươi, mười lăm phút, có khi cả giờ đồng hồ, tôi chữa bệnh hạ xuống ngay lập tức rồi lại lên tiếp như cũ, chừng ba, bốn lần cấp cứu mới hết hẳn!

    Mới đây bé lên cơn đau ở lớp, nhà trường gọi Ba cháu lên rước về! Tôi sinh nghi gọi phần Linh căn bé Minh Tâm về, thấy cháu ngồi gục đầu trước bàn thờ Phật, dìu cháu đứng thẳng lên tôi thấy lộ ra hai mắt quỷ đỏ ngầu. Tôi hỏi thì cháu bảo hơn mười ba tuối bị xe đụng vỡ lá lách mà chết, từ đó cứ đau hoài, mỗi lần lên cơn thì hai mắt quỷ lại xuất hiện, hết đau mắt không còn đỏ, cháu lại là bé Minh Tâm xinh xắn! Tôi chữa cho cháu, xin phép dùng Phật ấn để giải nghiệp cũ, hai phút sau bé Minh Tâm hết đau và bé Chi cũng tự động hết dù tôi không chữa cho sáng” gọi những cơn đau đột xuất đó là ngọn giáo tiền kiếp”, tức sự đau đớn ở kiếp trước, ngay trước lúc chết, những cơn đau đến và ra đi không rõ lý do. Đương nhiên các xét nghiệm của bệnh viện không tìm ra bệnh, Phật bà Quán Thế Am gọi đó là bệnh do Căn hoặc Nghiệp!

    Bệnh căn là bệnh của các phần Linh căn ở trên xuống, do có tội bị đi đày. Bệnh Nghiệp là bệnh của linh hồn vĩnh cửu, chịu cái đau do nghiệp tiền kiếp dồn trả.

    Chúng tôi sợ nhất là loại bệnh này, chữa “trần ai” mới hết, lại chịu đau thế, đau trả dữ lắm!

    Không phải phần Linh căn chủ xác nào cũng được tự nhiên nhập xác trần, phải đúng thời điểm ấn định! Có người bốn, năm mươi tuối, có người hơn hai chục, có người chưa đầy mười tuối đã ứng về. Chỉ có phần bị đi đày mới nhập xác từ sơ sinh, những phần ấy không có linh hồn vĩnh cửu, chỉ có hồn hiện kiếp, và thường phải chịu một hoàn cảnh rất nặng nề (tùy theo tội trạng).

    Mãn hạn lưu đày, nếu không gieo Nghiệp mới thì bé.

    Độ hai mươi phút sau, tôi phát đau bên thành bụng được trở về, bằng không lại phải đầu thai kiếp khác để trả tội đã vay! Người trần thế không biết, cứ gieo nhiều nghiệp chướng để rồi hết kiếp người phải chịu nghiệp báo luân hồi sang kiếp khác. Vì vậy mà chúng ta thấy nhiều hoàn cảnh trái ngang, nghịch thường và bất công đến nỗi khó tin, để chỉ có thuyết ‘Nhân quả luân hồi” của nhà Phật là hợp lý hơn cả!

    Được làm thân người đã khó, chẳng chịu gieo Nhân lành. Đến một lúc mất cả thân người, thành ngạ quỷ, súc sanh, hồn lạc phách xiêu lang thang hàng xứ đói rét lạnh lùng, phẩn hận không nguôi - Hoặc như loài vô tri vô giác súc sanh, bàng sanh không còn cơ hội trở lại kiếp người được nữa.

    Mùng 8 tháng 5 năm 2006 Ba tôi mất sau mấy tháng nằm bệnh. Tôi về quê Nội ở Vĩnh Kim - Trà Vinh (nơi Ba tôi sống cùng người vợ sau) xin rước vong Ba về Sài Gòn thờ, cho trọn bề hiếu đạo.

    Lúc đó, con trai lớn tôi mất mới nửa năm, mỗi ngày dọn cơm tôi vẫn gọi hồn cháu về ăn, không mời Ba vì tôi nghĩ dưới quê đã cúng cơm hàng ngày rồi. Đến bốn mươi chín ngày cúng thất tuần cho Ba, Ba tôi về, bước vào nhà xá Bàn thờ Phật ba xá rồi quay lưng đi ra không nói gì đến tôi! Tôi gọi lại han hỏi xem ba có thiếu thốn và cần thiết gì không, Ba nói có một câu rồi đi: “Nếu có thể thì con giúp Ba, Ba hiện đang ở cửa ngục thứ bảy, bị tra tấn đau đớn lắm!”. Tôi nghe vậy khóc ròng.

    Từ ấy trở đi tôi tụng Kinh Cầu siêu cho Ba. Khi bắt đầu tụng kinh, tôi xin phép đưa phần Linh Điển của mình tới tận cửa ngục thứ bảy để tụng một thời Kinh Siêu độ, cầu cho tất cả các tội nhân trong ngục ấy cũng được nghe để phát tâm tu trì hầu tiêu tan nghiệp chướng, được đầu thai trở lại làm người!

    Suốt thời gian tụng kinh, tôi luôn thấy mình ngồi giữa một hành lang tối đen, hai bên là tường thành bằng sắt cao ngất không tìm thấy cửa. Có lúc Vía tôi thấy mình mò mẫm đi tìm, áp tai vào thành sắt mà chẳng nghe động tĩnh gì, chỉ có sự im lặng lạnh lẽo cùng tiếng kinh tụng từ miệng tôi vang lên nghe rõ mồn một giữa chốn không người.

    Trong một tuần liền, tôi bị đau nhừ nhẫn. Thỉnh thoảng chừng mười lăm, hai mươi phút lại nghe một luồng đau rát và nóng buốt vút qua ở sau lưng, y như có ai cầm roi nung lửa mà đánh, đau rát và nóng đến kinh người. Tôi sợ quá nói với Má: “Chắc con bị ung thư xương!”, Má tôi bảo đi bệnh viện xét nghiệm kẻo rồi bệnh chuyển nặng không kịp chữa!

    Tối hôm sau, khi tụng kinh tôi quên khuấy lời khấn “Đưa phần Linh Điển tới tận cửa ngục”. Thế là sáng hôm sau hết đau! Nghiệm lại tôi biết mình đã chịu đau thế cho Ba.

    Đến rằm tháng bảy - tôi cúng cơm chay và kết hợp chiêu đãi phần âm! Ba tôi về, vui cười Bảo tôi: “Ba được lên cửa ngục thứ Ba rồi, cảm ơn con”. Từ đó, mỗi lần cúng cô hồn hàng tháng, tôi lại xin cho Ba tôi và con trai về làm chính chủ đứng ra phân phối lộc thực để tạo công đức mà “đoái công chuộc tội”. Tôi cũng khấn xin quy công đức chữa bệnh, giúp người từ giờ trở đi cho Ba tôi để xin giải nghiệp cho Ba. Sau ngày giỗ hai năm của Ba, đêm ấy tôi nằm mơ: tôi thấy mình đi làm công quả ở Chùa - chỉ có một mình làm đủ thứ chuyện nặng nhọc, nào đắp đường, nào nhổ cỏ tr ồng cây. Mãi đến chiều tối mệt lã, tôi vào Chùa chào Sư Cô Trụ Trì nói: “Con làm xong việc rồi, thưa Sư cô con về”. Lúc ấy Sư Bà đang nằm trên giường bảo:

    “Con thấy gì không Lan? Ba con ngồi trên bàn đà đang cười kia kìa!”. Có thế, tôi giật mình tỉnh giấc. Từ “Bàn đà” hoàn toàn lạ lẫm với tôi, nhưng nghe nói Ba cười là tôi biết có tin vui cho Ba rồi!

    Từ hôm ấy trở đi Ba tôi được mãn hết tội, về ở tại nhà tôi. Mỗi bữa cơm tôi chỉ ăn một mình một bát, nhưng dọn năm bát năm đũa mời Ông Bà Nội, Ba tôi và bé Tí, bé Thiên An, và cho những âm vong bị nhốt trong KTT ăn.

    Có điều lạ là âm hồn trong ấy tự bốc ăn bằng tay, không dùng bát đũa - Tôi đưa mâm thức ăn vào, họ thò tay ra bốc ăn, chén bát không sờ đến, tiếng những ngón tay khua xuống bàn nghe y như tiếng gà mổ thóc vậy!

    Tôi cũng thấy mình chẳng giống ai, mỗi buổi cơm một mâm chén bát, ngồi bên mâm cơm nói láp giáp một mình - Đúng là “sống cùng cõi âm”, mãi rồi quen tật không còn muốn bước ra đường, bạn bè không có, các cuộc vui cũng từ bỏ, chỉ thích tịch lặng một mình!

    Tôi làm mọi việc không phải vì mê tín, bởi tôi đã tận mắt nhìn thấy âm phần ăn uống chi dụng được những thứ mà cõi thế tài trợ, tôi cho họ ăn chỉ vì lòng nhân đạo đấy thôi! Có lúc tôi quên, lại nghe văng vẳng bên tai: “Cho Ba ly nước!” (vốn Ba tôi có tật vừa ăn vừa uống).

    Có lần tôi nhận quyết định làm chủ nhiệm CLB thơ Đồng Vọng, về nhà vừa làm việc vừa nhớ lại cuộc họp công bố quyết định lúc sáng. Bỗng nghe tiếng ba tôi vang lên sau lưng: “Con Sáu Núi mà vừa gì!”, kèm theo một trận cười sảng khoái của Ba.

    Ba tôi xưa kia là Hiệu trưởng trường làng, Má tôi cũng là cô giáo. Ba Má hồi mới yêu nhau làm thơ cho nhau nhiều lắm! Nay con gái Ba làm thơ giỏi, chắc Ba cũng mãn nguyện rồi.

    Thôi, chắc tôi kể về mình cũng nhiều rồi, xin tạm ngừng ở đây, chúng ta sang chương khác vậy nhé!

    SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC PHẦN LINH ĐIỂN LIÊN ĐỚI (2)

    Chúa Ngọc Nương Nương hiện hình:

    Một đêm vào tháng 7/2005, điện cúp đột ngột! Nhà tôi lúc đó có ba cô cháu: tôi cùng cháu Minh và Tuyết (học trò nhân điện). Chúng tôi thắp cây đèn dầu ngoài miếu thờ Mẹ.

    Tuyết bảo: “Để con ra thắp hương Mẹ rồi con về!”, vừa ra, Tuyết chạy vào ngồi sụp xuống chân tôi, nói không ra hơi: “Có ma cô ơi, ma ở ngoài miếu, ma nhập vào tượng Mẹ nhìn con cười đàng hoàng!”. Tôi nạt: “Nói bậy không, ma quỷ nào dám nhập vào tượng Mẹ!”. Cháu Minh nghe vậy chạy ra rồi cũng trở vào mặt mày xanh lét: “Đúng là người thật mà cô, thấy con tới cũng nở nụ cười”. Cô cháu tôi “lò dò” đi ra. Đúng là tượng Mẹ hóa thành người thật, chớp mắt và nở nụ cười với chúng tôi. Trời ạ! Khuôn mặt Mẹ Diêu Trì rộng lớn phương phi, hai mắt dài có đuôi, người tôi thấy mặt trái xoan nhỏ nhắn, mắt hai mí tròn xoe, nhìn thấy chúng tôi mỉm miệng cười chào!

    Tôi chạy vào nhà, thắp hai cây nến to mang ra: “Chắc do cây đèn dầu ánh sáng yếu nên mình tưởng tượng ra thế!”. Khi ánh nến sáng rực soi vào, pho tượng cũng nhếch miệng cười chào như cũ, cả ba cô cháu đều sợ run. Vừa lúc ấy điện có, tôi nói hùng hồn: “Điện sáng, hết ảo giác rồi, còn sao được, ra coi!”. Vẫn là người nhập vào tượng. Mẹ cười cùng chúng tôi như cũ.

    Tôi vào nhà thắp hương xin Mẹ Diêu Trì, xãy thấy ngoài miếu bước vô một người tự xưng danh là Chúa Ngọc Nương Nương (Người đời hay thờ trong nhà, gọi là “Mẹ Sanh Mẹ Độ”), Người bảo mình có dịp đi qua, rẽ vào thăm cô cháu!

    Nghe vậy tôi kính cẩn: “Con chào Mẹ”. Người ấy nói: “Chúa Ngọc là nữ cô, con gái của Mẹ Diêu Trì. Chúa Ngọc xin chào Lục Nương!”. Người giải thích với tôi rằng: tôi có một phần Linh căn bên Địa Mẫu, là người vợ ph ẩm thứ sáu của Ngọc Đế, phẩm danh là ‘Lục Nương”. Người cho biết: Ngọc Đế có một Hoàng Hậu, phẩm danh là Thiên Hậu Nương Nương, cùng với chín Ai phi, phẩm tước xếp từ thấp đến cao! Người có tài điều binh khiển tướng toàn cõi là “Cử u phẩm Lệnh Bà”, còn gọi là ‘Diêu Trì Địa Mẫu Chơn Thiên”.

    Nói thế thôi, Chúa Ngọc người chào chúng tôi rồi đi!

    Chúa sứ Nguyên Nhung.

    Rằm tháng 8/2006 (ngày Vía bà Cửu Thiên), chị em chúng tôi nấu bốn mâm cơm chay cúng Mẹ!

    Vừa thắp hương xong, Vía tôi thấy một người bước vào ngồi xuống ghế, người ấy xưng: —Ta là Diêu Trì Địa Mẫu”, tôi nhìn kỹ, hóa ra không phải Mẹ, một người mặc đồ võ tướng, người nhỏ nh ắn, đeo bao tay màu đen, chân mang giày cao ống của Tướng võ, cân đai mũ miện đường hoàng!

    Tôi bực mình nạt: ‘Đừng có lừa tôi! Mẹ Diêu Trì nào mặc đồ võ, giọng nói cũng không phải của Mẹ! Cho biết người là ai, nếu không đừng trách sao tôi xúc phạm à nghe!”. Người ấy cười xòa, cung tay vái tôi một cái rồi nói: —Tôi là Chúa Sứ Nguyên Nhung, ái nữ của Diêu Trì Kim Mẫu. Chúa sứ Châu Đốc cũng là tôi, xin chào Lục Cô Cô!”.

    Hết “Lục Nương”, giờ lại đến ‘Lục Cô Cô”, gì kỳ vậy không biết nữa! Tôi nói: “Con xin chào Mẹ!”. Nguyên Nhung cười khì một cái, bảo: ‘Nguyên Nhung là nữ cô!”. Tôi lại nói: ‘Người đời gọi Nguyên Nhung là Mẹ, tôi cũng là xác trần, xin cho phép tôi gọi Người như người trần thì hơn!”.

    Chúa sứ Nguyên Nhung nói: ‘Người làm khó tôi, tôi không thể tiếp chuyện cùng Người, tôi đi đây. Xin chào!”. Lại cung tay vái một vái rồi biến mất.

    Lê Sơn Thánh Mẫu:

    Tôi không nhớ Mẹ Lê Sơn về với tôi lần đầu như thế nào, chỉ nhớ hình tướng Mẹ như đàn ông: mũi dài, môi thâm, miệng lúc nào cũng bỏm bẻm nhai trầu. Người về với tôi hay mặc bộ đồ gấm màu trắng kem, cổ dantone, tay lỡ rộng! Tính người nóng nảy bộc trực, ăn nói bỗ bã bình dân, không kiểu cách, quyền uy, chẳng cần “thủ lễ thủ bộ” gì cả! Người giống như một bà Mẹ miền quê chơn chất nghĩ sao nói vậy, thực thà như đếm.

    Nhớ lần đầu gặp Mẹ, tôi đã —phỏng vấn”: “xin Mẹ giải thích cho con biết: tại sao những xác Đồng múa bóng, múa rỗi thường đa số đều “ái Nam ái Nữ?”. Mẹ cười nói: “Không biết nữa! Chắc tại giống ta nên ta chọn!”. Mẹ giải thích thêm: người Nam thì có sức nhưng thiếu độ mềm dẻo, người Nữ lại sức không bền! Múa rối cần người có sức lực lại phải mềm dẻo trong cử điệu.

    Tôi vẫn còn nhớ có lần Mẹ Lê Sơn rầy dạy tôi một cách chân tình như sau: “Bây nhịn Mẹ một chút không được sao (ý nói Mẹ Diêu Trì), cứ cãi lại hoài. Bà nói thì c ứ im nghe đi, từ từ rồi tính! Ta nói cho mà biết nè: từ cõi dưới tới cõi trên chẳng ai là không thích “nịnh” hết! Ngọt ngào một chút với Bà cho Bà vui. Bây được chứ không mất mát gì đâu mà lo!”.

    Mẹ Lê Sơn nghe nói thì “dễ chịu” vậy đó, nhưng chớ có lầm! Mẹ “hét ra lửa” chứ chẳng chơi - Làm cho Mẹ gi ận đi rồi biết. Mẹ là người chủ lễ, từ lúc Mẹ về, tôi được Mẹ dạy dần dần các lễ ti ết trong nghi thức thờ cúng, sao cho đơn giản nhẹ nhàng, ít tốn kém và đạt kết quả.

    Bề Trên vốn không chú trọng về hình thức mâm cao cỗ đầy, chỉ cốt thanh sạch và trang nghiêm là được!

    Tôi viết lại đây tặng các bạn cách cúng để thượng Trang thờ ho ặc ngày Lễ, Vía. Các bạn có thể sử dụng cho mình, và tôi chịu trách nhiệm về sự ứng nghiệm! Chỉ cần các bạn thực hiện đủ các bước mà tôi đề ra - Còn một vấn đề quan trọng không kém lễ tiết là phương hướng, nơi đặt bàn thờ, bài vị... xin chuyển sang đề mục liên tiếp, để cho bạn đọc tiện bề tra cứu!

    LỄ TIÉT

    Trang thờ Phât:

    Phương hướng:

    Chính giữa phòng khách, đối diện cửa ra vào hoặc phòng thờ

    Trên cửa “Bản mệnh” (tức cửa chánh trổ vào buồng), nằm trên cao ở vừa tầm với hoặc cao hơn.

    Thời gian: giờ Ngọ (từ 11g15 đến 13g), ngày rằm ho ặc mùng 01 hàng tháng (tính theo âm l ịch)

    Lễ vật: 01 đĩa ngũ quả, 01 trái dừa, 01 lọ hoa (huệ trắng hoặc hoa sen), 02 ly nước, 01 chai dầu thơm, có chè xôi hoặc không.

    Sắp lễ: bên phải bàn thờ là lọ hoa và 01 trái dừa, bên trái là đĩa ngũ qu ả, 02 ly nước để chính giữa phía sau lư hương.

    Hình thờ không cần đưa lên Chùa để “khai quang điểm nhãn”, chỉ cần lau rửa sạch sẽ là được! Nếu hình thờ không có đèn chiếu, ta mua thêm hai bóng đèn nhỏ đặt ở hai bên trang thờ để đón thanh khí.

    Người làm lễ phải tắm gội sạch sẽ, mặc đồ dài, đúng giờ Ngọ thì thắp ba nén hương (tất cả các bàn thờ khác đang có trong nhà cũng phải cúng hoa trái và thắp một nén hương).

    Lời khấn: Con tên: ... là chủ của ngôi gia này! Hôm nay là ngày. tháng. năm. nhằm giờ Ngọ. Được ngày lành tháng tốt con xin phép đại diện toàn gia thượng trang thờ Phật (Phật Bà hoặc Phật Ông).

    Con xin phép cung thỉnh (Phật Bà hoặc Phật Ông) về ngự tại ngôi gia của con, để trong nhà có Minh Chủ, đón khí thanh về, xua trọc khí rời đi! Cầu xin cho vợ chồng con cháu trong nhà trên dưới thãy đều biết tu nhân tích đức, làm lành lánh dữ để đẹp dạ Ông Bà Tổ Phụ cùng các Đấng.

    Con xin phép làm lễ tẩy trần và dâng nước. Kính thỉnh (Phật Bà hoặc Phật Ông) hoan hỉ ngự về nh ậm lễ.

    (Cắm ba nén hương vào lư hương xong dùng chai dầu thơm xịt phía dưới chân hình thờ hoặc tượng, xịt vào dưới bình hoa và lư hương, xịt bốn góc trang thờ để làm lễ tẩy trần)

    Quay lại rót hai ly nước kính cẩn dâng lên bàn thờ, xong quỳ xuống l ạy ba lạy, đứng lên xá ba xá!

    Nên nhớ các lễ cúng thượng trang hoặc ngày giỗ chạp, ngày Vía. nước và rượu phải dâng lên mời sau khi thắp hương và khấn. Bình trà (hoặc rượu) và các ly sắp sẵn phía sau lưng, khấn xong mới rót mời!

    Nếu là nhà mới hoặc mới chuyển chỗ ở, ngay ngày giờ thượng trang Phật chúng ta có thể cùng một lúc thượng trang tất cả các bàn thờ khác trong nhà, không cần chờ đúng ngày lễ, Vía. Điều này làm đơn giản và chỉ tốn chi phí, công sức cho một lần thượng lễ.

    Muốn thượng nhiều trang thờ cùng một lúc, ta phải sắp sẵn cỗ lễ, tất cả lễ ti ết đều phải hoàn tất trong giờ Ngọ, quá giờ xem như lễ ấy bất thành!

    Chai dầu thơm để trên bàn thờ Phật, ngày Vía hàng tháng sau khi cúng lễ, thắp hương ta lại xịt tẩy trần bàn thờ (nếu để ở bàn thờ khác, ta chỉ dùng riêng tại chỗ, không đem xịt sang chỗ khác được).

    Trang thờ Thần Tài, Thần Đỉa:

    Vía thần Tài mùng 10 hàng tháng! Nếu cúng ngày Vía thì thêm một đĩa tam sên và hai chung rượu (rượu trắng, không dùng rượu pha), đĩa tam sên gồm có ba thứ: thịt, trứng, tôm (hoặc cua) luộc chín.

    Phương hướng: bàn thờ đặt trong phòng khách hoặc phòng thờ, đối diện cửa cái, tránh không nên để ở (hoặc bên) gầm cầu thang lên lầu hay gác, (cả trang thờ Cửu Huyền cũng vậy). Nên để ở góc phải hay trái, không để chính giữa nhà.

    Lễ vật: 01 đĩa ngũ quả, hoa, 02 ly nước, chè xôi (lễ

    Bàn thờ Cửu Huyền:

    Điều nên nhớ: nếu chỉ thờ từ cha Mẹ trở xuống con, cháu. ta có thể thờ bình thường, nếu có thêm ông bà, bắt buộc phải có bài vị Cửu Huyền để đại diện cho một chi phái, kiến họ! Bài vị có chữ hoặc chỉ là một tấm gỗ trơn để trên giá gỗ (có làm bán sẵn ở tiệm bán đồ thờ).

    Không có bài vị Cửu Huyền là thất cách, con cháu cũng như gia chủ trong nhà sẽ bị hành liên miên, đau ốm, nạn tai và trục trặc, xào xáo bất an.

    Thời gian: cùng ngày với bàn thờ Phật, hoặc chọn một trong bốn ngày Vía Cửu Huyền: mùng 3, mùng 7, 13 ho ặc 17 hàng tháng! Từ đó trở đi ta lấy ngày này làm ngày Vía Cửu Huyền, mỗi tháng cúng một lần cũng vào giờ

    thượng trang cúng, khấn sau khi thượng bàn thờ Phật)

    Lời khấn: Con tên là gia chủ của ngôi nhà

    Ngọ!

    Phương hướng: dưới bàn thờ Phật hay ở một góc này. Hôm nay là ngày… tháng… Năm… nhằm giờ Ngọ!

    Được ngày lành tháng tốt, sau lễ thượng trang Phật, con xin phép (Phật Bà hay Phật Ông) cho con cung thỉnh phần linh Điển của thần Tài thần Địa về ngự tại ngôi gia, để phò hộ cho gia đạo chúng con trên dưới trong ngoài bình an vô sự, tài lộc hanh thông!

    Con xin phép làm lễ tẩy trần và dâng nước mời Nhị Thần ngự về nhận lễ vật cung nghinh.

    (Cắm 3 cây hương lên bàn thờ, xịt dầu thơm dưới chân hình tượng, bình hoa, lư hương, bốn góc bàn thờ xong rót nước dâng cúng, lạy 3 lạy, xá 3 xá. thế là xong phần lễ Thượng Trang) phòng khách, hoặc trên đầu tủ thờ, hai bàn thờ phải đặt cách nhau tối thiểu 60 cm.

    Lễ vật: 01 mâm cơm (hoặc 01 con gà luộc, cháo hoặc xôi chè), 01 đĩa ngũ quả, 01 bình hoa, 02 ly trà, 02 ly rượu trắng, 01 chén gạo, 01 chén muối, giấy tiền vàng bạc (Gà cúng nên mua loại gà trống nhỏ độ chừng hơn kém 01 kí)

    Lời khấn: hôm nay ngày. tháng. năm nhằm giờ Ngọ! Con tên là gia chủ của ngôi nhà này. Được ngày lành tháng tốt, con xin phép thượng trang thờ Cửu Huyền.

    Con xin phép các chư vị Thần Tướng tứ trụ gia môn cùng thần Tài thần Địa, tam vị Táo quân. cho phép con cung thỉnh Linh Vị Cửu Huyền về ngự tại ngôi gia, để con cháu tiện bề hương khói trả ơn Ông Bà tộc Tổ.

    Con xin đại diện cho gia đình: vợ chồng, các con cùng các cháu xin mời đại diện chi phái, tộc họ tứ thân phụ mẫu của vợ chồng con về ngự trên bàn thờ. Con xin phép làm lễ tẩy trần và dâng hương cung thỉnh Ông Bà Tổ Phụ. (sau khi xịt dầu thơm làm lễ tẩy trần, ta mới sắp bày thức ăn hoặc hoa quả, để tránh dầu thơm bay vào các thức, dầu thơm cũng xịt bên dưới hình thờ, lư hương, bình hoa và bốn góc trang thờ)

    Bày thức ăn xong, ta rót dâng mời Ông Bà Tổ Phụ 02 ly nước và 02 ly rượu (rượu mời ít chừng V chung, không nên rót nhiều).

    Sau khi mời rượu, ta xin phép đốt hóa tiền vàng (lạy 7 lạy, xá 3 xá rồi đốt), tiền vàng khi đốt để vào một thau chậu bằng nhôm cũ, đừng bỏ ngoài nền đất mà đốt!

    Nên mua hai chum nhỏ có nắp đậy để đựng gạo, muối cúng Ông Bà. Đậy nắp để nguyên như vậy đến tháng sau ngày cúng Vía Cửu Huyền ta thay gạo muối mới, gạo muối cũ đem ra nấu ăn bình thường.

    Các dạng lễ củng khác:

    Cúng Vía Cửu Huyền hàng tháng ta không cúng tiền vàng (vì Cửu Huyền đã có hộc của, kho của rồi).

    Bất cứ lễ cúng nào (ngay cả cúng giỗ) cũng phải vào đúng Ngọ. Nếu cúng khác giờ, xem như cỗ cúng bất thành, âm phần không được nhận lễ! Ngoài giờ Ngọ, cúng phần âm hoặc nói nôm na là “cúng cô hồn” ta có thể cúng từ 7 giờ tối đến 11 giờ đêm

    Lễ cúng không cần chờ đến tàn nhang mới dọn xuống, sau khi đốt hóa tiền vàng độ chừng mười, mười lăm phút ta dọn được rồi! Vì âm phần nhận lễ rất nhanh, để quá lâu ruồi nhặng bu đậu, chúng ta ăn vào dễ bị trúng độc.

    Các cỗ lễ cúng (ngay cả cúng cô hồn) ta đều đem vào ăn được, không bỏ gì hết! Vì vậy, khi cúng nên chọn món ngon mà ta ưa thích, đừng cúng thứ dở, để rồi đem vứt bỏ đi, ta sẽ mắc tội khinh rẻ âm phần!

    Trừ cúng xả xui, giải nạn, giải tà - người cúng đem ra góc ngã ba, ngã tư đường mà cúng, và phải bỏ lại tất cả, không mang theo thứ gì về nhà, ngay cả chiếc quẹt gas. cúng xong trở về tới trước cửa nhà, ta đứng lại ngoài ngõ phủi sạch sẽ quần áo (để giải trọc khí, khí xấu không theo ta vào nhà)

    Nếu cúng cho các âm phần, âm căn hoặc Chúa Quỷ, Thần Thánh. không phải là các âm phần ở trong nhà, khi cúng ta để ngoài hàng hiên trước nhà, lệch qua khỏi cửa cái, về phía đường lớn có xe cộ lưu thông (để phần âm nhận rồi đi, không ở lại trong nhà. Nếu cúng giữa cửa cái, Ông Bà Tổ Phụ và các Chư Thần trong nhà sẽ không cho nhận).

    Trừ các nơi làm ăn mua bán thì cúng trước cửa nhưng vẫn để lệch khỏi chính diện.

    “Trần sao âm vậy!”, ta thích ăn gì, thì cúng phần âm món đó, cúng xong ta lại dùng chẳng mất đi đâu! Đừng cúng thứ trái xấu, bánh dở. cúng xong có người vứt ra đường cho xe cộ qua lại giày xéo, trông xót xa biết mấy. Cúng như thế chỉ tán tài tán lộc thêm mà thôi (lời Mẹ Diêu Trì dạy)

    Các Đấng cũng như Ông Bà Tổ Phụ, có cho lộc thì ta mới có lộc! Đồ cúng tùy theo gia cảnh, có tiền cũng nên cúng hoa đẹp, trái tốt! Các Đấng với Ông Bà nhìn thấy cũng đẹp dạ, vui lòng, ta mới hưởng lộc và giữ lộc được.

    Không tiền thì cũng lau rửa bàn thờ, dâng lên hai chung nước trắng với 1 nén nhang (lời Mẹ Diêu Trì)

    Cúng các Đấng cũng như các vị Thần Tiên, Trạng,

    Thánh Và Chúa Quỷ... khi có đồ mặn ta mới cúng rượu, cúng âm không có rượu (phần âm say sưa sẽ sanh tâm dữ hại người)

    Cúng các Đấng như Thần Tiên, Trạng Và Chúa Quỷ... ta cúng một đĩa tam sên, hoa trái, nước và rượu! Khi cúng, nên mua các con vật làm sẵn bày bán ngoài chợ, chớ nên mua đem về nhà mới giết mổ, cho đỡ phạm tội sát sinh, thêm âm khí, trọc khí trong nhà... Con vật khi đã chết là đã trả nghi ệp rồi, ta không vướng nghiệp sát nữa... Gọi là “né tránh” chút xíu cho giải bớt oan nghiệp vậy thôi - Đã là người trần thế, chuyện “ăn mặn” là chuyện thường tình. Đôi lúc “buồn miệng” ta ra chợ mua một, hai kí nghêu sò ốc hến về luộc chín mà ăn, không hay biết vì ta mà trăm ngàn sinh linh nhỏ bé phải chết!

    Hoặc “trứng vịt lộn” bỏ vào nồi nước nấu từ lúc nước còn lạnh đến nước sôi, chúng ta thử nghĩ xem các con vật trong ấy đau đớn đến thế nào!

    Cũng cần phải “ăn để sống”, thôi thì mua con vật làm sẵn, ăn không ngon bằng đồ tươi sống nhưng đỡ phạm tội sát sinh... (lời Mẹ Diêu Trì dạy)

    Khi cúng Vía Cửu Huyền hàng tháng, ta nên cúng thêm một mâm cho các âm phần của bàng hệ. Ông Bà ở đâu, con cháu chầu theo đến đấy! Con cháu, chắt có họ hàng xa gọi chung là bàng hệ, để cho họ đói thì họ quậy trong nhà...

    Cúng bàng hệ phải để dưới thấp, không để trên mâm cao, họ không dám nhận! Khi cúng ta cúng thêm giấy tiền vàng bạc (nhưng phải xin bàn thờ Cửu Huyền chính trên cao cho phép), không cúng rượu. Thức cúng thì nên cúng những thứ âm phần các loại có thể ăn để no, hơn bánh trái thường chỉ để ăn làm vui... Ví dụ: bánh chưng, bánh tét, bánh đa, khoai củ...

    Mùng 8 tháng 8 hàng năm là ngày lễ Thông Thiên (tức ngày đường lên Trời mở cửa), ta có thể chọn ngày này để cúng giỗ Hội (Ông Bà Tổ Phụ đã mất lâu năm, chúng ta dồn lại cúng giỗ chung một ngày, gọi là ngày Giỗ Hội). Đây cũng là ngày Giỗ Nghiệp Tổ Nghiệp - Tông hoặc ngày ta dâng lễ cầu xin giải nạn, giải nghiệp...

    + Cúng Cửu Huyền: 01 mâm cơm, gạo muối, hoa, trái, 02 trà, 02 rượu (hoặc gà luộc, xôi chè, bánh trái)

    + Cúng các chư vị Quan Binh, Thần Tướng: đĩa tam sên, hoặc thịt heo quay (hoặc vịt quay), 02 trà 02 rượu, hoa trái, chè xôi, giấy tiền (loại để cúng chư Thiên).

    + Cúng Phật: Hoa trái, chè xôi, nước.

    Ngoài ra còn vài loại cỗ cúng khác như:

    Cúng khai trương,

    Cúng nhập gia

    Cúng động đất cất nhà

    Cúng xoay chuyển mồ mã Ông Bà Tổ Phụ

    Cúng giải nạn, giải nghiệp

    Cúng rước vong chết đường, chết chợ trở về nhà

    Cúng đưa vong trẻ hư thai, chết nhỏ đi đầu thai

    Cúng Chúa Quỷ

    Cúng Binh Gia

    Và thần Tổ Nghiệp... xin các bạn đón đọc ở HMLK tập 3, kẻo viết dài dòng e sa vào đường mê, không biết lối ra mất...

    Người trần chúng ta có trong tay tất cả những phương tiện khoa học hiện đại, vũ khí tối tân, tưởng mình dõng mảnh nhất! Đâu hay rằng chỉ một trận cuồng phong

    thành quách cũng không còn. Ông cha ta tự ngàn xưa còn lưu truyền những nghi thức cúng lễ trang trọng và hoành tráng đến tận ngày nay, người ta gọi đó là “thuần phong mỹ tục”...

    Mỗi buổi tối thắp vài nén hương trên bàn thờ, không khí trong nhà ấm cúng hẳn lên! Các ngày Lễ Vía, cỗ cúng và các nghi thức cúng đơn giản mà trang trọng làm cho cả gia đình vợ chồng con cháu đều cảm thấy dậy lên trong lòng niềm tôn kính những người đã khuất, ý muốn trau dồi đạo đức nhân tâm và ý thức hệ trong mỗi cá nhân.

    Lại nữa, trong căn bản của niềm tin, người ta đã tìm thấy sự bình an và tin tưởng. Đương nhiên là chớ đặt để niềm tin vào chỗ cuồng tín đến mù quáng, sa vào ngõ tối đường mê!

    THỰC HÀNH CỤ THỂ (10)

    Giờ chúng ta trở lại với gia đình ông H.A. (Phần trần xác của Mẹ Diêu Trì). Nguyên tích về gia đình ấy có thể kể thành trọn bộ tiểu thuyết hấp dẫn... Thế mà cũng chính từ đây, tôi phải chịu một nghiệp quả kinh khủng, nặng nề nhất trong suốt mấy mươi năm theo chân Mẹ độ đời...

    Mẹ ông H.A vừa mất, được Phật Bà cứu vong đưa đi, không theo đúng trình tự thông thường! Ông Bà cửu tộc thấy đột ngột âm vong biến mất, bèn cho người truy tìm...

    Đến một ngày, ông H.A vừa lên nhà, tôi thấy ngay một vị theo sau mặc áo thụng màu lam, mặt mũi rắn rỏi, mày rậm mắt sắc như một thầy võ. Người ấy xưng: “Ta là Công Thần của tộc họ Hạ. Ta theo dấu đã lâu, nay mới tầm đến đây, ngờ rằng cô biết chuyện! Xin hãy báo cho tôi biết: âm phần của Bà.... ở đâu!”. Tôi sợ quá, chối rằng mình không biết gì, ông ta lại bảo: “Chúng tôi đề nghị giao âm vong lại cho cửu tộc, nếu không chúng tôi kiện lên

    Trên xin xử theo án lệnh!”. Ngay lúc đó, trong lúc tôi chưa biết phải ứng phó ra sao thì Phật Bà hiện ra, người bảo: “Am vong hiện đang ở trong cung Nội Đâu Suất, do ta quản lý và chịu trách nhiệm! Được rồi, ta sẽ cho vong về trình diện. Ngày mai con (chỉ ông H.A) dâng lễ cúng Cửu Huyền, đúng giờ Ngọ ta đưa vong Mẹ con về bái lễ Tổ tông!”

    Qua ngày mai, mọi sự diễn ra suông sẻ...

    Sau này, Mẹ giải thích: một phần Linh căn muốn được đưa trở về ngôi phải đoạn căn trần, cửu tộc được báo rõ ràng. Nay Nhà Phật độ vong Mẹ đưa về ngôi không theo luật định, cửu tộc họ kiện là phải! Nếu Mẹ Quán Âm không khéo thu xếp, mọi sự chắc chưa an.

    Đến ngày ông H.A về quê cúng Giỗ hội Tổ tông, Mẹ Diêu Trì phán: “Mua một bộ áo mão cân đai màu vàng nghệ, đem về tộc đường dâng lên giữa bàn thờ Tổ để cung thỉnh phần Linh căn của Mẹ là Diêu Trì Địa Mẫu Chơn Thiên về ngự ở Từ Đường dòng họ”.

    Từ ấy mới êm chuyện âm vong của Mẹ! Có lần, Mẹ Diêu Trì đưa về một Tiên ông, xưng là lúc mới sinh cháu cứ khóc hoài, không cách nào dỗ được! Đưa sang ngủ với Bà Nội thì cháu nín khóc, ngủ ngon.

    Thằng bé bị bệnh bại não, đến mười bảy tuổi thì cháu mất!

    Mẹ Diêu Trì bảo đó là phần linh hồn của cha ông H.A, vì tình quyến luyến của vợ mà không nỡ rời đi. Lẩn quẩn chung quanh, đầu thai trở lại kiếp người làm con, làm cháu... Những mối oan nghiệp như vậy thườ ng kéo dài không lâu vì “nghịch số”!

    Sau khi Mẹ ông H.A mất một thời gian, đứa con gái của H.A mang thai, lần thứ hai sau mười bốn năm có cháu gái đầu lòng... Vui mừ ng không kể xiết khi biết đó là con

    Thiền Quán Chân Nhân, một trong tám vị Bát Tiên, ông chính là phần Linh căn của chHA! trai!

    Gần tới ngày sinh, một buổi chiều nọ ông H.A lên Người mặc áo thụng bằng vải trắng, tướng người nho nhã thư sinh... Mẹ bảo căn trần của cha ông H.A đã đoạn, giờ chỉ còn lại Linh căn thôi!

    Lúc sinh thời, Mẹ ông H.A luôn để trên giường ngủ của mình hai cặp gối nằm và gối ôm. Đến lúc bệnh nặng bà nôn ra gối, ông H.A đem gối vứt đi, tỉnh dậy bà nằn nặc đòi đem gối trả về chỗ cũ. H.A sinh nghi hỏi Mẹ - bà nhận mình để như vậy, xem như lúc nào cũng có người bên cạnh, suốt sáu mươi hai năm qua, để thủ tiết thờ chồng nuôi con! H.A là đứa con độc nhất, xem như di ễm phúc bằng non khi được là con của Mẹ...

    Chính từ chuyện này mà nảy sinh ra bao nhiêu oan nghi ệp mà suốt về sau, khi trở lại với Linh căn Mẹ vẫn còn ân hận khôn nguôi...

    Ông H.A kể lại: ngày trước ông có một đứa con trai, nhà tôi để xin Mẹ về trợ cho con gái của mình được “Mẹ tròn con vuông”. Bởi sau một thời gian dài mới đậu thai, e có điều bất ổn!

    Mẹ Diêu Trì vừa bước vào nhà, chợt tôi nghe vang lên bên tai mình tiếng trẻ con: “Cháu chào Bà!”. Vừ a nghe câu nói ấy, Mẹ Diêu Trì biến hẳn sắc mặt, sửng người không nói được gì! Thoắt cái, bà Cửu Thiên hiện ra, bảo:

    “Bà đi đi, để tôi!”... Mẹ quay lưng đi mất!

    Bà Cửu Thiên giải thích: “Linh hồn người cha của H.A về tìm không thấy vợ nên độn kiếp vào làm con cháu trong nhà”. Tôi hỏi: “Nếu thế điều gì sẽ xảy ra?”. Đáp:

    “Đứa trẻ chết ngay khi ra đời, hoặc sống vài tuổi là cùng!

    Giờ phải dụng phép, quyền biến mà hóa giải...”

    Bà Cửu Thiên mời về một người, tôi nhìn thấy một vị người cao to, mặc áo thụng màu trắng tinh, đầu cũng vấn khăn màu trắng tương tự những người theo đạo Hồi. Vị ấy xưng: “Tôi là Thần A Tức Mặc - Xứ Tân Đề Li Cổ!”. Bà Cửu Thiên hỏi: “Trong vòng một tuần lễ có đứa trẻ trai nào sinh ra ở gần nhà của ông đây?”. Thần A Tức Mặc đi một chốc sau, trở về bảo: “8 đến 10 ngày thì có. Một tuần lễ thì không!”. Bà Cửu Thiên bảo: ‘Phiền ông đem trao hồn đổi xác dùm ta!”.

    Quay lại H.A, Bà Cửu Thiên dặn: “Con về tìm hai đĩa kinh Cầu An và Cầu Siêu. Khi nào con gái đi sanh thì bật kinh Cầu Siêu để tiễn vong, xong tới kinh Cầu An để trợ mệnh, nghe liên tục đến khi nào trẻ ra đời thì thôi!”.

    Ông H.A làm đúng như lời dặn, cháu trai ấy hiện vẫn còn sống và khỏe mạnh, bình thường...

    Phần người vợ của ông H.A bệnh trầm kha, biến chuyển thất thường, mỗi lần trở nặng ông lại nhờ tôi ứng trợ! Đúng năm lần trở bệnh, tôi đã dùng hết năng lực và trí khôn xoay chuyển phần số, bà khỏe dần... Đến lần thứ sáu, Mẹ Diêu Trì về không cho tôi trợ cứu tiếp tục: “Lẽ ra nó đã hết số từ lâu rồi, hết con rồi đến cô Lan xin. Ta nể cô Lan lại kéo dài mệnh số, lỗi này ai chịu cho ta? Từ nay không được xin nữa nghe không?”

    Xác trần thì không hay biết gì, nhưng linh hồn bà vợ ông H.A biết mình sau khi chết bị vướ ng nghiệp ngạ quỷ, cứ liên tục tìm lên nhà tôi để cầu cứu...

    Có lần bà bị huyết áp lên xuống đột ngột thất thường, khi nóng sốt nhức đầu, lúc lại choáng vã mồ hôi lạnh, làm mệt! Ông H. A điện lên tôi nhờ giúp. Tôi xin Điển Trên cho điều tra, trụ thần nhìn thấy... 13 con chó sói thành tinh! Con đầu đàn hiện hình thành một người đàn ông lực lưỡng, khuôn mặt bị cháy xém trông rất ghê, mặc áo sọc đứng thắt ngang lưng như loại kimono Nhật. Nhìn người biết là ông thầy Võ, thầy Pháp cao tay...

    Tôi hỏi, người đàn ông ấy bảo vì có duyên với bà nên

    muốn về bắt hồn đi theo: “Bao giờ?”. Ông ấy bảo: “Tháng bảy này, thưa cô!”.Tôi lại hỏi: “Ông bị chết cháy à!”. Đáp: “Không, tôi bị cháy trước đó hai năm. Tôi chết là do bị đồng bọn đâm lén!”. Ông ta giở phanh áo, tôi thấy một vết đâm bên hông trái sâu hoắm... Người đàn ông ấy đưa cho tôi thấy Lệnh phép, khi đã có Lệnh phép thì tôi vô phương cứu! Vong ấy bảo: “Tôi yêu cầu cô không can dự vì tôi đã có Lệnh phép!”.

    Bí quá, tôi bày cho ông H.A: tối nay sau khi thiền nhận điện thì xin nhà Phật cho phép án chữ Vạn vào 13 vong chó sói, xong phủ trường khóa cửa, phủ trường lên người bệnh và giường ngủ...

    Đêm sau, ông H.A điện bảo tôi trụ thần nhìn xem sự thể ra sao! Tôi nhìn thấy cả bầy sói gục đầu xuống như mệt lã, riêng con đầu đàn vẫn đứng nguyên, ngẩng cổ lên trời mà tru liên tục. Đêm ấy lúc ba giờ sáng ông H.A đang nằm ngủ trên võng nghe tiếng la ú ớ vội bật dậy lại bên giường, ông thấy bà vợ đang nằm vặn vẹo người trong cơn mê và nói lảm nhảm, mặt biến dạng đi hẳn, trông rất đáng sợ!

    Ông H.A lay dậy, tự nhiên từ phía bụng dưới của bà có tiếng vật gì rút ra nghe “soạt” một tiếng rất rõ ràng...

    Thức dậy, bà vợ ông H.A kể: “Có một người đàn ông lạ mời tôi ăn một mâm thịt thú rừng rất ngon! C ả nhà không ai ăn, chỉ có mình tôi ngồi ăn đến no nê...”

    Tối đêm sau nữa, ông H.A lại kể: “Tôi lên phòng thờ trên lầu ngồi thiền xong, sực nhớ lại tấm ảnh Phật ngày xưa Điển Ông đã trao tặng cho tôi cùng với lời dặn: ‘Nếu sau này có biến, hãy đặt tay lên tấm ảnh này khấn xin đích danh ta: Thích Ca Mâu Ni Phật, ta sẽ về trợ cứu!”... H.A làm y lời dặn, xuống lầu đến phòng ngủ, Vía thấy Phật Giáng Sinh thật lớn đứng án gần hết cửa ra vào, ông biết rằng vợ mình sẽ được cứu...

    Phần tôi đang cầm điện thoại bỗng nghe tối tăm mày mặt, bế tim nghẹt thở và tay chân run lẩy bẩy... Biết ngay

    là mình vừa bị đánh lén, tôi gọi âm vong người đàn ông lạ ra hạch hỏi. Hắn nhận đã đánh tôi vì tôi không chịu giữ lời hứa của mình, đã “vẽ đường cho hươu chạy”... Tôi điên lên, trụ thần ngồi thiền năm phút cho tỉnh rồi bắt nhốt toàn bộ 13 “yêu tinh sói” vào KTT!

    Sáng ngày, tôi thắp hương trình lên Mẹ sự việc, Mẹ Quán Am Bồ Tát về bảo: “Để ta đưa chúng về rừng!”. Tôi nói: “Mai mốt chúng lại về quậy nữa thì sao?”. Mẹ bảo:

    “Đó là định mệnh”.

    Nếu “yêu tinh sói” chẳng đánh tôi, tôi đã không được phép động đến chúng, vì chúng làm theo án lệnh, như lời Mẹ Diêu Trì: “Có thành án thì mới xử được!”.

    Chuyện này xảy ra đúng vào đêm rằm tháng tư năm 2008. Buổi trưa nhà tôi cúng Vía Phật Đản sinh, ngay tối hôm ấy tôi xử lý năm vụ (chỉ qua điện thoại), và thắng cả năm, trong vòng có hai tiếng đồng hồ... Là Ngài Thích Ca ứng trợ đấy thôi!

    Nếu tôi nhớ không lầm, chỉ ba tháng sau “yêu tinh sói” lại trở về, lần này chỉ có một mình, và âm thầm theo sát bà vợ của H.A...

    Một lần nọ, cha vợ ông H.A tới nhà, ngủ lại một đêm! Chỉ đến năm giờ sáng ông nằn nặc đòi đưa về lập tức vì sợ, ông kể giấc mơ thấy mình đang nằm ngủ thì bị một người đàn ông to lớn bóp cổ, ông vùng vẫy kêu la,

    Vía thấy Mẹ ruột của mình (Bà Nội của vợ ông H.A) chỉ đứng nhìn mà không nói gì!...

    Vài đêm sau, vợ H.A lại kể mình mơ thấy một con gấu thật to đuổi bắt, mọi người chỉ đứng xem mà không ai ứng cứu! Vía bà thấy Mẹ chồng nằm trên giường với một đứa cháu nội trai, còn bà thì bế một đứa trên tay bỏ chạy, kêu Mẹ cứu, Mẹ chỉ nhìn mà chẳng nói gì!

    Cứ mỗi lần như vậy, vợ H.A lại trở bệnh nặng... thuốc men bác sĩ chẳng ăn thua gì, và tôi lại làm “người chiến sĩ vô danh”, chiến đấu cùng định mệnh! Khi tôi “giải

    quyết” xong mọi việc, vợ H.A qua cơn kịch phát và khỏe lại, phần tôi chịu đau thế, nằm lùi lũi năm, bảy ngày là chuyện thường...

    Linh hồn của bà vợ H.A lên nhà tôi cầu cứu liên tục! Tôi bảo: “Bà trở về chuyển cho xác trần đến Chùa quy y đi, thì tôi mới có điều kiện trợ cho linh hồn!”. Hồn lắc đầu bất lực! Suy nghĩ mãi, tôi đưa linh hồn vào trong KTT, tối đến đem ra bắt ngồi nghe Kinh, ban đầu cũng thấy ngồi xếp bằng ngoan lắm, chỉ mười phút sau, quay lại đã thấy bà lăn ra ngủ... Được ba đêm thì tôi thua, trả linh hồn trở về với xác!

    Lần nữa, bà lại trở bệnh nặng, tôi khuyên ông H.A đưa vợ đến Chùa quy y, ông bảo: “Bà ấy không chịu, tôi mà ép buộc có việc gì xảy ra các con chúng nó lại đổ thừa”.

    Đêm ấy, linh hồn bà vợ H.A l ại lên cầu cứu tôi, với đôi mắt ngạ quỷ đỏ ngầu! Suy nghĩ mãi, tôi bèn xuất hồn đến tận nhà H.A, vô phòng khách bắt xác trần ngồi xếp bằng nghe Kinh... Tôi nhìn thấy bà ngồi đó, tóc tai rũ rượi, khuôn mặt vô hồn y như một người bị bệnh tâm thần, sau lưng có nhiều bóng người lố nhố... tôi độ chừng là âm vong của bàng hệ trong nhà!

    Tôi lại gần, nói ngọt: ‘Nè! Tóc tai để bù rối vầy xấu quá, tôi cột lại cho đẹp nha! Chắp hai tay lại nghe Kinh đi nào!”, bà không chắp tay, hai bàn tay loay hoay làm dấu ấn phép, đôi mắt quắc lên đỏ ngầu! Vừa chợt thấy, tôi bắt ra trói nghiến vào đâu đó, nhìn lại, thì ra một ông Đạo sĩ - Tra hỏi, ông ấy bảo mình thuộc Nghiệp Tổ bên bàng hệ của vợ H.A... Binh của ông đứng chật phòng khách!

    Tôi dùng lời khuyên giải và khuyến Đạo, xin phép trói vong người thầy Pháp ít hôm để cho linh hồn bà vợ H.A nghe kinh... Từ đó mỗi tối tôi bật Kinh Sám hối trong một giờ, lại cho thần thức xuống nhà H.A ép bà vợ ngồi nghe Kinh! Đến đêm thứ ba đã thấy bà tự động ngồi xếp bằng hai tay chắp trước ngực, mặt mày tươi tỉnh...

    Một tuần sau vong thầy Pháp cũng ngộ đạo, xin vào Chùa quy y cùng 120 binh gia của mình. Tôi lại thắng một keo đấu trí và lực! Vợ H.A lại thoát qua một đợt kịch phát, phần tôi đau đúng một tuần lễ...

    Bà vợ H.A bằng lòng theo ông vào Chùa xin l ễ quy y Tam bảo!

    Sau chuyện ấy, tôi thấy một giấc mơ lạ, trong lúc đang bệnh nằm dã dượi trên giường: Tôi thấy mình chữa bệnh cho hai người là chị em sinh đôi... Hôm ấy cả hai đang chuẩn bị đi xa, một người ngồi trong phòng khách căn nhà sang trọng ăn tiệc linh đình, còn một người ngồi bên hông nhà, bên mâm cơm đạm bạc, ăn vào lại nôn ra đầy cả áo...

    Tôi thấy mình bước tới lấy khăn lau, người ấy hất tay tôi ra và sừng sộ mắng chửi lung tung! Tôi dịu lời phân giải cho nguôi, sau đó chạy lên xưởng đóng giày dép ở gần đó lựa mua hai đôi mang về cho hai chị em, miệng nói: “Đường đi xa xôi lắm, không có dép làm sao đi tới nơi cho được”.

    Xong tôi trở về nhà, Vía thấy mình bị một đám người hung hãn tấn công rượt đánh rất dữ, chạy trốn đến cùng đường, tôi chui vào một xó ngồi ôm mặt khóc...

    Tỉnh dậy, tôi biết ngay điềm giấc mơ ứng báo: hai chị em sinh đôi là xác và hồn người vợ của ông H.A, và đôi dép tôi đem cho chính là Phật Pháp, tôi bị đánh đòn vô cớ chính ra do lãnh nghiệp người...

    Đến đây xin tạm khép chuyện gia đình ông H.A l ại, ta sang đề mục khác! Mời các bạn đọc dăm bài thơ của Tịnh Vân, người “khách thơ” bị dồn ép do những việc làm “nghịch mạng” của bà thầy Nguyễn Thị Thanh Lan...


    BÀI CA NGƯỜI ĐI KHAI HOANG

    VỌNG CẦU









    Hồi chuông thiền mặc vọng đâu đây ngọn cỏ héo gầy mơ sương sớm cánh hoa nửa mùa e gió chớm vần thơ đợi đếm khúc Nam Bình...

    KHÚC CHIÊU HỒN

    Người không có cả một thời quá khứ

    Ơi người khách trần du, chiều gió nổi Nép vào đây cho vợi bớt phong sương Mảnh khăn xảo choàng vai rồi sẽ ấm Lễ Công Thần chỉ đôi ngụm trà suông!

    Đây lều cỏ trăng về treo áo mộng Đây sân rêu, buồn ngã nón trông chiều Ở ngoài kia chỉ bời bời gió loạn Nhẹ bàn chân, sỏi đá cũng đăm chiêu...

    Về cõi tịnh, lắng nghe hồi chuông vọng Khói sương bay ấm dạ khách cô thân Ao trần buông, lòng chẳng chút phân vân Tâm có nhẹ, thì xin cầu Lục Tự !!(*)

    Người không còn chỉ một chút tương lai Cơn lốc cuộc đời lạnh lùng vây phủ Tiếng gọi tha nhân nặng gánh lưu đày...

    Hoa vẫn nở miệt mài bên hiên vắng Đỏ tím vàng...- ong bướm lại lần sang Khung cửa khép, gió đi về thầm lặng Mái tóc xanh, rồi tóc ấy võ vàng!...

    Câu réo gọi, lời than van thống thiết Tiếngphôn reo nhức nhói đến bàng hoàng Nguồn ân cứu mượn vay cạn trút Một góc đời người ngã gục, hoang mang...

    (*)

    53

    Lục Tự: “Nam Mô A Di Đà Phật”

    Vẫn xa lắc đến bình yên cõi tạm Khát khao tìm cành trắng đóa Vô ưu Đêm Linh tử vọng trời cao đòi đoạn Hồn lang thang lạc lõng chốn sa mù!


    Người kêu cứu, và ta đợi cứu Người gọi ta, ta biết đợi chờ ai?

    Cơn gió cả tận trời Linh Thứu Dạo qua đời - Đạo thế nào khai?

    Đã cùng tận niềm đau thể xác Vẫn chưa thôi đày đọa linh hồn Người ngẩng mặt nhìn trời khao khát Gọi hồn ơi! Hồn bỏ xác bay lên!!

    14/5/2009


    MAI VÀNG CÕI TỊNH

    Thoáng bóng áo nâu chìm trong sương Đất trở dưới bàn chân lặng lẽ Xuân chuyển bước, sắc mai vàng rực rỡ Đạo khai mùa,thế thế hoằng sinh!

    Sóng tâm ba lan chuyển buổi Kinh hành

    Mây Diệu Pháp nhuần che vạn vật

    Trời Tế độ sâu dài, rộng khắp

    Trống Đại Đồng vang tứ chung hồng ân!

    Cánh chim xa về đậu giữa đất lành

    Thả xuống giữa thinh không muôn hồi chuông ngọc

    Giun dế giật mình, cỏ cây tỉnh thức Hoa Đàm nở cội Trần Vi!...

    Rộng mở Đạo tràng, đẹp dạ Đấng Từ Bi Trời đất nghiêng mình cung chúc Vạn cánh tay trần làm nên Thánh Tích Từ tấm lòng bi mẫn khách hồng nhan!

    Cúi lạy Đấng Chí Tôn bóng cả dõi nhân hoàn

    Cảm ơn người dẫn lối đưa đường về bên chân Phật

    Hạt giống Thiện nảy mầm, vươn khắp

    Mai nên rừng, công đức vạn đời sau

    31/10/2007 (Kỷ niệm hai ngày viếng Đạo tràng Chùa Tâm Thành - Bến Tre)


    ĐẠO CA

    Mượn “KHÚC VÔ THƯỜNG ” ngẫm ĐẠO CA

    Luân hồi kiếp kiếp dạo Ta Bà

    Neo hồn bến Đục cầu Vô Ngã

    Gởi xác dòng Mê - nguyện Lợi Tha

    Giữ ý, lần theo đường Chánh Giác

    Gìn lòng xa lánh nẻo Phù Hoa

    Lợi danh, gió thoảng ngoài song cửa Một chút tâm tình gởi bạn xa... //

    LUÂN HỒI

    Bó hoa tươi rồi khô dần trên mộ Gió sẽ mang đi!

    Thân xác ấy khô dần nơi đáy mộ Ai lòng “Thố tử hồ bi ”?

    Tên người bia mộ còn ghi

    Hồn người phiêu dạt, nào khi hẹn về

    Ba sinh dẫu có ước thề

    Nắm tay chẳng được, giữ người được sao?

    Nào ai xương trắng máu đào

    Thác đi, một nấm cỏ khâu cũng rồi!

    Cội cành khô lại đâm chồi

    Viễn trình kiếp kiếp, luân hồi một thân

    Tam đồ lục đạo phân vân

    Bể trần muôn nẻo, xoay vần mãi sao?

    Tang thương từng ấy đã nhàu

    Khách hoàng tuyền hỡi, còn đau mấy lần?!

    Tháng 10/2007


    ĐỒNG VỌNG

    Người gọi ta - Người gọi ta! Bên trời đồng vọng Đợi chờ - Thinh lặng Nguồn sinh ca...

    Mây triều thiên nở hoa Tầng tầng nắng lụa Cõi hoang trần sương pha Dịu dàng lá ngủ!

    Phút Thần Khải giật mình rơi lệ Lối về xưa chạnh một câu thề Ơi hồn Linh Tử Sao còn ngủ mê?!

    21/7/2007

    BÀI CA NGƯỜI ĐI KHAI HOANG

    “Ai người mang gươm mở cõi Ai người lãnh ấn tiên phong Tiếng chuông có thấu Đại Đồng?

    Câu Kinh nhật tụng chuyển dòng nghiệp oan..

    Ai đi vào chốn hỗn mang Thắp đuốc mà soi ngõ tối Vấp ngã, chông chênh, lầm lỗi Giáo khiên nào che phận người?

    Ai lang thang một góc đời Nhặt lấy giữa dòng cát bụi Hạt mầm cuối mùa bão nổi Gieo giống Toàn Chơn - đợi ngày...

    Ngày nào nỗi đau biết hát Người trở về miền lặng thinh Khép cửa - tháng ngày luân lạc Thành khói bay vèo hư linh!

    Thấp thoáng hoàng hôn soi bóng Nhân thế vời trông ngậm ngùi Sau lưng chập chờn nỗi quạnh Hồn theo cánh gió về trời...

    24/7/2008


    THẾ LOẠN

    Cả cõi thế đang thời loạn động Một lũ ma vô đạo diễu hành Đôi mắt đỏ tìm trên sàn diễn Chiều biến thiên mở cõi, khai thành...

    Những hoàng hôn sẫm màu hương khói Chẳng làm bầu trời xanh hơn!

    Những đêm trắng gục đầu sám hối Nào phai dấu vết tủi hờn!

    Người trót mang dòng Thánh tích Đem thân làm kẻ tội đồ Nghiêng ngã muôn làn sóng trược Ngùi tanh vị khí trần ô!

    Ngẩng trông đất trời muôn hướng Tìm đâu một khoảng bình yên Giông tố bạo hành trường diễn Một mình - say tỉnh triền miên...

    Tháng 4/2008

    NGỘ

    Hạt mầm dưới cội thu Nhân danh mùa sám hối Tiết khí dầu âm u Lòng hãy như giấy mới!

    Cánh nhạn về theo xuân Chút ân cần gõ cửa Mau lên, chớ lần lựa Yêu thương nhau, để mà...

    Lợi danh, tấm áo khoác Đâu che hết phận người Khi trái tim biết hát Hoa cỏ kia cũng cười!

    Hạt giống Bồ Đề sinh Từ cội nguồn giông bão Từ ngưỡng cửa tâm linh

    Sắc không đồng nhất thể!

    Hạnh nguyện chữa viên thành Ao trần sao nỡ bỏ!

    Hạt sương chờ nội cỏ

    Tinh - Khí - Thần vãng sanh !!

    15/2/2006


    VỌNG CẦU

    (Những ngày “đau thế” kinh khủng... càng kêu khóc, c ầu xin lại càng đau!)

    Khi Thượng Đế không đứng về phía bạn Một mình, nương cậy vào ai?

    Con thuyền NOÊ cũng đắm Còn trơ một vọng hải đài!

    Ta nghe linh hồn than khóc Âm vang rờn rợn thịt da Tê điếng giữa làn môi nhạt Ôi trời!Máu chảy thành hoa!!

    Ngọn lửa âm cung bừng cháy Mạch nguồn chân lý ra tro Cả một lũ ma vô đạo Nghênh ngang khoác lác, giở trò...

    Nẩy lên, cán cân Công Lý!!

    Cháy dồn ngọn lửa Huyền Môn

    Linh tử làm tên quân thí

    Dấn thân vào chốn loạn trường...

    Gục đầu dưới bao sức mạnh

    Đọa đày, chẳng một cứu sinh

    Ngẩng trông đất trời vô vọng

    Xin đừng giày xéo LÒNG TIN!!

    25/3/2009

    HỒN VÀ XÁC

    Người nhìn xuống nhân gian bằng nỗi ưu tư của Chúa Đôi mắt buồn của Mây

    Sự thờ ơ của Gió Và Nhan Sắc đọa đày...

    Một chút kiêu sa làm nền nhiễu loạn

    Ngọn gió phong trần thổi suốt đường thơ

    Trong hoang vu của thành quách ngày x ưa

    Ta nghe tiếng hồn hoang thức dậy

    Rón rén, ngập ngừng mê dại

    Vào hiện sinh tấu khúc Lạc - Hồn - Ca!...

    Loài người say sưa nệm gấm chăn hoa

    Ru ngủ con tim và lý trí

    Trái đất già nua cằn cỗi

    Đếm ngược thời gian tàn hoại, suy vi

    Ơi này em Nhan Sắc - bu ổi ta đi!

    Một trời loạn, tìm nhau sao được...

    Ta đứng lại bên đường, ngơ ngác

    Thẫm dấu hoàng hôn, bóng ngã trùng vây!!

    25/5/2009


    NỖI ĐAU TRẦN THẾ

    (Cảm xúc khi nhìn ảnh một bà lão ăn xin. Anh phóng to khổ 30 x 40 do Thiếu Tướng Nguyễn Chu Phác, Giám Đốc bộ môn Cận Tâm Lý - Trung tâm Phát triển Tiềm năng con người Hả Nội gửi tặng cho tác giả Huyền Môn Lược Ký!)

    Mẹ già lần dò gậy chống Nỗi buồn rơi trên vỉa hè Bỏ lại tình đời ấm lạnh Mắt già bụi phủi sương che...

    Đau thương trở thành nốt lặng Bất hạnh đâm chồi cây khô

    Sau lưng đói nghèo, cô quạnh Trước mắt hiện thân hoang mồ!

    CHUYỆN NGƯỜI

    Có ai đưa bàn tay nắm?

    Dắt dìu mảnh đời bơ vơ Có ai lau dòng nước mắt?

    Xe qua, cuối phố bụi mờ

    Mẹ già quay mình ngơ ngác Chiều xuống, biết về nơi đâu?

    Thị thành xa hoa gấm vóc Bu ồn cao như gió ngang đầu!

    Những bàn tay run vẫy gọi Anh mắt cháy lời cầu xin Nỗi đau nhân tình thống thiết Quay lưng, ngoãnh mặt sao đành!! 68

    Người ta đi tìm người thân Bắt gặp giữa thế gian toàn kẻ lạ Nụ cười va vào vách đá Vỡ toang! Người ta bước vào Nhà Thờ

    Thấy những Linh Mục đang mở tòa phán xử

    Sấm sét giáng xuống đầu bầy dị giáo

    Cửa Hỏa ngục mở tung

    Đức chúa cha khóc trên nóc Giáo Đường!

    Người ta lang thang tới cửa Chùa

    Thấy những kẻ ăn mày khất thực

    Vị Thiền Sư lên bục giảng bài Đạo Đức

    Di động reo, rúc rích tiếng chuột cười...

    Đi vào Đại định, nhắm mắt, trên cao - Phật ngồi!!

    Người ta đi một mình trên phố Mắt nhắm mắt mở Thấy inh ỏi tiếng kèn xe Ngựa người lố nhố!

    Thế gian rồng rắn đi về

    Giật mình nhảy vội, đứng bên lề

    Người ta đi một mình ra biển

    Không bạn bè, người thân

    Không Giáo Đường Đình Chùa, Phật, Chúa

    Không giới cấm, điều răn

    Chẳng có ai để sám hối, ăn năn, xưng tội!

    Người ta ngồi ngắm trăng suông Thấy mình rộng hơn biển, cao hơn núi Và nhẹ nhàng hơn đám mây hoang ...Người đi vào với biển - thênh thang!...

    LÒNG MẸ

    (Xúc c ảm với tình Mẹ của cô Châu vả cô Hiền - Hai Bả Mẹ không chồng nuôi hai người con tâm thần: một người 25 năm, một người 14 năm... Tôi chữa hiện nay đã ổn, không còn bị lên cơn, không phải dùng thuốc c ủa bệnh viện nữa)

    Nước tự nguồn xuôi về với biển đông Biển chẳng rộng bằng trái tim của Mẹ Muôn sao sáng giữa trời đêm lặng lẽ Đâu mênh mông bằng tình Mẹ vô cùng...

    Ôm con trong tay thuở tóc còn xanh

    Lại dìu con suốt một thời tóc trắng

    Dâu bể đắng cay trở thành nốt lặng Mắt Mẹ già còn sương khói chiều hôm!

    Quạnh quẽ cô thân bóng chiếc đâu sờn Mẹ vẫn bên con, tháng ngày nghiệt ngã Mặc thói đời đắng cay, giả trá vẫn thương con bằng tình Mẹ bao dung

    Nào đứng lên đi, con có Mẹ nương Mau tỉnh giấc rời cơn mê, con hỡi!

    Những đêm trường lặng nghe trời gió nổi Lời nguyện cầu Mẹ gởi đến vô biên...

    Tiếng mõ câu Kinh lạc giữa đời quen Mẹ vay mượn Giáo điều làm lá chắn Quên nỗi muộn phiền, quên ngày cay đắng Mẹ ôm con, ru cho hết một đời...!!

    28/5/2009


    MÂY TRẮNG

    Trăng vỡ - hồn nhiên gió động cành Vàng rơi, tâm thức cũng mong manh Chênh vênh một cõi - Mê còn động Mờ ảo đôi đàng - Ngộ chẳng sanh! Mở túi Càn khôn, vời quả đắng Khép vòng Luân nghiệp, khởi căn lành Hương bay, vọng niệm tan thành khói Mây trắng ngang đầu, mộng lại xanh!!

    Tháng 6/2008

    LIÊU TRAI (08)

    Trong nhà tôi chuyện bất thường và dị thường xảy ra như cơm bữa, mãi rồi tôi không còn thấy sợ, chỉ bi ết ngao ngán lắc đầu hứng chịu, chịu một thời gian rồi cũng qua!

    Tôi cứ như một ông Quan thanh liêm khờ khạo bị tội oan, đưa đi đày giữa chốn ma binh, để rồi phải chịu sự khuấy đảo, phá phách của chúng, và chỉ bi ết khoanh tay bất lực đứng nhìn.

    Khi tỉnh táo, mỗi tối tôi trục âm một lần, trong nhà mới yên ổn qua một đêm. Chưa kể là âm phần chui trốn trong mọi xó kẹt trong nhà, trốn vào đâu thì phá hư ở đấy. Dường như tất cả máy móc trong nhà tôi đều bị “mazt” Nếu tôi không nhớ trục âm vong, một thời gian ngắn ngủi là thay máy mới!

    Tôi kể lại một số chuyện bất thường, bạn nghe như nghe kể chuyện Liêu trai, nghe qua rồi bỏ, chớ để bị ám ảnh mà sinh bệnh tâm thần!

    Tôi xuống giúp cho ông giám đốc một xí nghiệp xây dựng ở Long An, mang về bốn “yêu tinh” nữ (họ tự nguyện theo tôi, chờ ngày chuyển vào Chùa tu). Khi đưa

    họ vảo KTT, tôi quên không đóng nắp lại. Trưa hôm sau tôi phát hiện điện thoại bàn bị hư! Mùa nắng nỏ, không có gió lốc, mưa giông, điện thoại mới dùng một giờ trước vẫn tốt, tự nhiên rồi “điếc câm”!

    Tôi tìm kính đeo mắt, định ra sân xem lại đường dây, vừ a cầm kiếng lên tay, có ai đó hất vào tay tôi một cái, kính rơi vỡ tan tành! Kính mắt của tôi thỉnh thoảng vẫn rơi, nhưng chưa lần nào bị vỡ nứt, rõ là có một sự va chạm rất mạnh mới làm vỡ nát cả hai tròng kính!

    Tôi sinh nghi, trụ thần nhìn thấy bốn —yêu nữ” ngồi xếp bằng ngoan ngoãn trước mặt - Tôi hỏi, họ xác nhận đã làm hư điện thoại và kính mắt của tôi, vì: —Từ hôm qua tới giờ không nghe cô Hai nói gì, chúng con phải phá để nhắc cho cô nhớ!”. Tôi hỏi: “Các cô ra bằng cách nào?”. Đ áp: —Cô Hai quên đóng cửa!”. Ra vậy! Vì chuyện này mà tôi mất sáu trăm năm chục ngàn: bốn trăm năm chục ngàn tiền kính và hai trăm ngàn mua điện thoại mới.

    Cô Bình tới nhà tôi nhờ chữa bệnh, lúc đó tôi đang ngồi máy may sửa lại chiếc áo thun mặc ở nhà. Chữ a bệnh xong lại may tiếp. Đường may tự nhiên đi xiêu vẹo như người say, cắt bỏ may lại thì nghe “cụp” một tiếng: gãy kim! Tôi lấy kim khác ra thay, lại gãy. Tự mắng mình: “Máy đã cấn kim mà cứ để may tiếp bảo sao chẳng gãy”, thay kim khác, ngồi lên may. Nghe —phựt” một tiếng: đứt dây cuaroa!

    Tôi kiên nhẫn lắp ráp lại, sợi dây cuaroa còn mới, vừa đứt lần đầu, thế mà lắp vô lại đứt nữa, cả thảy ba lần. Lúc đó trời đã tối, người vã mồ hôi lại đói nhừ, tôi bỏ đấy đi ăn cơm, ăn xong lên thắp nhang tối. Đứng quay lưng lại phía máy may, tôi chợt nghe ớn lạnh từng luồng sau lưng, sinh nghi quay lại cho KTT bắt ra. 13 Binh gia từ phía cô Bình!

    Sáng ngày mai ngồi lên máy, cứ thế mà may, không còn triệu chứng bất thường nào - Gớm! Chỉ có một đường may thẳng từ nách áo xuống thân mà may đến năm lần mới được!

    Hôm ấy tôi bị rối loạn tiền đình: đầu váng mắt hoa, tay chân run lẩy bẩy như người sắp xỉu. Chiều tối lấy gạo ra vo chuẩn bị nấu cơm, tay run quá làm rơi nồi gạo xuống đất, gạo vung vãi tứ tung. Bé Chi đang học bài, nghe vậy bảo: ‘Mẹ để lát con học bài xong con dẹp!”. Tôi lấy gạo khác ra vo, nấu! Ngồi bệch xuống nền nhà, tôi gom gọn đống gạo lại một chỗ, lấy tấm giẻ lau nhà chận lên trên.

    Lát sau, gọi bé Chi xuống dọn dẹp. Tấm giẻ lau còn nguyên đấy, cả lon gạo biến mất tăm. Giống như một giấc mơ, tỉnh dậy không phải là sự thực: không hề có hạt gạo nào rơi vãi, nền nhà sạch bong, tấm giẻ lau vẫn còn đùm túm một chỗ, chứng minh sự việc là có thực! Cả hai Mẹ con ngồi ngẩn người ra đấy, ngỡ ngàng.

    Đầu karaoke mới mua, thợ đưa đến nhà lắp ráp đàng hoàng mọi thứ, máy vẫn đang hát tốt, khi tôi trả tiền, tiễn thợ ra về, trở vào phát hiện nó “rè rè” trở chứng lung tung, càng điều chỉnh lại trục trặc nhiều hơn! Tôi điện hỏi nhỏ em út, út bảo: “Tại chị sử dụng chưa rành, để mai em lên coi!”.

    Hôm sau út Thảo lên mở máy, hát ngon lành hơn một tiếng đồng hồ, xong để nguyên máy hát, micro lại đó ra về, tôi trở vào cầm lên hát, máy trở chứng tiếp! Đến tối hôm sau, đang đứng thắp hương lại nghe lạnh dọc sóng lưng, mới biết có âm phần trong ấy. Tôi trục ra. 7 tên. Từ ấy đến nay đầu máy bình thường trở lại!

    Con trai tôi đem bộ máy Vi tính từ bên nhà cũ về, ngồi loay hoay lắp ráp. (cháu là thợ lắp ráp Vi tính chuyên môn). Cắm điện vào bị “mazt” cháy linh kiện!

    Thằng nhỏ chép miệng: “Chắc để lâu không dùng nó bị mazt”, mang tiền đi mua linh kiện về, ráp vô lại cháy!

    Cháy đến ba lần cả thảy, tôi tốn hơn hai triệu, coi như mua mới toàn bộ cái CPU.

    Tối, tôi ngồi xem truyền hình, nghe ớn lạnh sau lưng từng hồi liên tục. Tôi quay lại truy bắt. gần ba mươi con ma! Nếu để ý từ đầu, tôi đã chẳng mất hơn hai triệu bạc.

    Đêm giao thừa 2009, loay hoay đến gần ba giờ sáng tôi mới đi ngủ. Vừ a lên giường, tôi nghe có tiếng gõ trên la phông nhà - Ti ếng gõ hai nhịp một, ngưng độ mười giây lại tiếp, cứ hai nhịp đều đặn rõ mồn một, nghe váng cả đầu trong đêm khuya! Ngờ mấy con chuột phá phách, đang mệt tôi chẳng thèm để tâm, cố nằm dỗ giấc ngủ.

    Tiếng gõ xuống ngay đầu giường, gõ vào đế bàn của cây quạt máy, cũng cứ hai nhịp một, nghỉ đều đặn mười giây lại tiếp tục. Đang mệt lử, tôi chuồi xuống giường đập tay vào cây quạt: “Đi chỗ khác cho người ta ngủ, phá vừa vừa vậy!”, tiếng gõ im bặt, tôi ngồi canh chừng độ hai phút, thấy đã yên bèn leo lên giường ngủ tiếp!

    Thấy tôi chẳng làm gì, tiếng gõ lần này kéo xuống chân giường, gõ vào cánh cửa tủ, cũng “cạch cạch” hai nhịp một! Tôi điên người trở dậy, trụ thần cho trường điện mở cửa đuổi ra khỏi nhà, đếm có 3 tên, trở vô leo lên giường ngủ luôn tới sáng.

    Đồng hồ báo thức nhà tôi ba đêm liền mazt đủ ba đêm, đêm thì báo sai giờ, đêm lại câm bặt không thèm lên tiếng, báo hại bé Chi đi học trễ, khóc ròng!

    Tôi bực mình, đi mua đồng hồ mới, đem về ba đêm nữa vẫn cứ mazt lung tung. Nghi ngờ tôi cho truy bắt, ra 5 tên ở hai cái đồng hồ!

    Mất lòng tin, tôi không thèm dùng đồng hồ nữa, tôi cho điện thoại di động hẹn giờ, đem vô để ngay trên đầu nằm, đâu có ma nào dám chui vô mùng để phá, bé Chi từ ấy hết đi học trễ. Hiện tại ở nhà tôi còn nguyên hai chiếc đồng hồ báo thức “để làm kiểng” trong nhà!!

    Người đạo Phật thường hay đeo chiếc vòng bằng hạt đá hay nhự a trên tay, biểu tượng của người Phật Tử.

    Tôi đang đeo một vòng hạt màu đen, vừa xỏ xong một vòng nữa đeo cho bé Chi. Hai Mẹ con ngồi dựa vách đọc báo, chợt nghe “cạch” một tiếng bên hông, quay lại thấy nửa hạt đá màu đen vừa rơi từ đâu đó xuống. Tôi ngẩn người: ‘Chi ơi! Vòng hạt của con vỡ rồi, lấy đâu mà thay!”.

    Bé Chi xem lại, chiếc vòng vẫn còn đủ y nguyên.

    Nửa hạt này rơi từ đâu ra? Đang ngồi ngắm nghía, lại nghe một tiếng “cạch” ở phía hông bên kia, mò tìm thấy thêm nửa hạt đá, ráp vào đúng nguyên một hạt! Hạt đá vỡ đôi đều tăm tắp, cứ như được cắt bằng máy vậy. Tôi ngồi tròn mắt ngắm, chợt nghe vang vọng bên tai tiếng cười giòn dã của. Điển Ông!

    Đến nay, tôi vẫn còn giữ hai nửa hạt đá làm kỷ niệm!!

    Chiếc quạt máy nhà tôi trục trặc đã hơn một tuần nay! Bật lên nó kêu như tiếng người nghiến răng trèo trẹo đến nhức óc, đinh tai.

    Một hôm có hai anh chị bạn tới chơi, anh bảo đem quạt ra anh sửa giúp! Tôi đem quạt ra cắm điện vào... nó chạy ngon lành và im như thóc! Hai người bạn cứ ngỡ tôi nói đùa cho vui, ở chơi suốt gần ba tiếng đồng hồ, tôi tiễn hai anh chị ra về, trở vào mới phát hiện ra nó đang. rên rỉ tiếp, y như cũ!

    Nghi ngờ, tôi truy bắt được... 3 con ma! Hôm sau và suốt mười ngày liên tục chiếc quạt không hề lên tiếng, sang ngày thứ mười một nó trở chứng trở lại. Thấy người thợ sửa quạt đi qua tôi gọi vào... Đem chiếc quạt ra cắm điện, nó quay ngon ơ!!

    Nhà tôi có hai cặp chuột Hamster, nuôi chung một lồng kiếng, bình thường chúng vẫn thân thiện cùng nhau! Chiều hôm ấy có cô cháu đến chơi, đứng ngắm chuột và hỏi han đôi câu. Đêm tới, mấy con chuột cắn nhau, la ó

    ỏm tỏi cả đêm, đến ba giờ sáng chịu không xuể, tôi trở dậy bật đèn cho truy bắt, ra hai “con ma chuột” đen trùi trũi, nhốt vào KTT! Ngay lập tức, bốn con chuột im thin thít, không còn nghe cắn nhau nữa.

    NGHIỆP THÉ TRẢ VAY (07)

    Anh chị em và bạn hữu khi đọc xong HMLK I có người góp ý với tôi: ‘Nên cắt xén bớt những điều liên quan đến “trần kiếp”, để tạo lòng tin cho mọi người về tác gi ả như một người “dẫn Đạo dẫn đời” đúng mực!”.

    Thưa không! Tôi không muốn khoác cho mình tấm áo khoác lóng lánh như một thứ “hàng mẫu” để cho mọi người ngắm nghí a trầm trồ! Tôi chỉ là một người trần thế, như bao con người khác giữa đời, vẫn ao ước được sống một đời bình thường như bao người, được có chồng có vợ, khi bệnh hoạn ốm đau có người nấu cho bát cháo, có kẻ han hỏi thăm nom. Những lúc chán chường tuyệt vọng có một bờ vai để tựa, khi đau đớn khóc than có bàn tay lau đi dòng nước mắt!

    Tôi thèm nhìn cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau trong mâm cơm cuối ngày với nụ cười đầy ắp trong căn nhà nhỏ. Tôi đâu muốn sống đời lẻ bạn cô phòng, giấu mình cho kỹ, sửa mình cho tròn như một vị “Thánh tử vì Đạo” thế này!

    Căn nguyên nguồn cội của bình an hạnh lạc bắt đầu từ gia đình, một tập thể nhỏ bé với vài thành viên. Một mảnh đất ấm áp mới dung dưỡng cho hạt giống quý nên cây ra hoa, đậu trái, thành rừng! Mảnh đất khắc nghiệt chỉ đáng trổ ra toàn trái đắng.

    Phần tôi, phải làm hạt giống gieo trên vùng đất dữ, làm cây cao bóng cả giữa mùa dông, vẫn phải làm cho đất ấy hồi sinh ra trái ngọt cây lành!

    Tôi làm mọi việc chỉ vì lòng mẫn cảm, yêu thương mọi người, không phải để tôn vinh chính mình hay ai đó! Tôi quan niệm: “Thêm một người hạnh phúc là bớt đi một kẻ bất hạnh”. Cho dù đời tôi có buồn đến đâu, tôi vẫn mong muốn mọi người, mọi vật chung quanh mình đều được hài lòng, mãn nguyện, muốn nhìn thấy nụ cười tươi nở trên đôi môi của tha nhân. Cho dẫu có những giọt nước mắt tủi hờn cho thân phận, tôi cũng sẽ giấu kín nó cùng bóng tối, đêm đen. Để vẫn còn thấy lòng rưng rưng xúc cảm khi tán thán cho niềm vui và hạnh phúc của người.

    Tôi thương các chị em Nhân điện nhóm của mình lắm, thương còn hơn chị em ruột! Vì họ đã can đảm dấn thân vào con đường đầy cam go và bất trắc, vui ít buồn nhiều này - tất cả vì tha nhân, cho tha nhân!

    Cả nhóm không có ai giàu, nhưng khi nghe tôi kể về một hoàn cảnh éo le nào đó thì chị em vét túi mà cho, mà giúp! Khả năng tôi không có nhiều thì tôi “uốn lưỡi” than van, để chị em xót lòng mà hỗ trợ!

    Mẹ tôi không thích cách làm này của tôi: ‘Nghe con Lan riết rồi người ta bỏ Đạo gốc hết! Phải gọi nó là “Đạo bá nạp” mới đúng!” (Bá nạp hay hổ lốn: từ dùng dân gian chỉ một sự pha trộn tùy tiện, cẩu thả). Tôi gân cổ lên mà cãi: “Các Đấng trên cao không có Đạo. Tùy theo quốc độ mà đề ra Tôn Giáo, chủ trương tín điều khác nhau. Lề thói là do người trần đặt để mà nên! Theo quan niệm của con, trăm Đạo đều quy về một mối là Tâm Đạo. Lòng bình an hạnh lạc cho tha nhân là cứu cánh. Con tôn trọng các Đấng như nhau, không phân biệt cao thấp hay Tôn Giáo nào cả!”

    Có lẽ vì vậy mà một người như tôi: kinh luận giáo điều không rành, lễ tiết chỉ là tùy tiện. Chỉ có tấm lòng vì người khác là đặt cao hơn tất thảy. Hơn hai chục năm nay, các Đấng lui về ứng trợ có ai rầy rà, bắt bẻ gì đâu!

    Chẳng ai ra điều kiện rằng tôi phải chay tịnh, quy y đầu Phật, tụng kinh niệm Phật hay thiền định chi cả!

    Mối tình luyến ái là nguồn cội của hạnh phúc và bất hạnh trần gian! Muôn đời muôn kiếp, linh hồn còn tồn tại là còn sợi dây luyến ái: con trai tôi mất hơn một năm, hồn về theo cháu Hương (người yêu lúc còn sống). Suốt ba tháng rưỡi, cô bé cứ bỏ ăn bỏ ngủ, người gầy rộc đi, hai mắt trõm sâu, mặt mày tái xanh tái xám.

    Đến một ngày có chị bạn tới chơi nói với Hương:

    “Tao thấy vong hồn người yêu cũ của mày đứng sau lưng”. Hương sợ quá, tìm tới nhà tôi! Tôi gọi linh hồn con trai về, cháu xác nhận là có: “Con chỉ đi theo thôi chứ không lại gần hay động chạm gì tới Hương hết!”.

    Tôi giận quá, đòi bắt nhốt linh hồn, thấy tôi khóc quá cháu cũng hoảng, hứa với tôi sẽ rời cô Hương ngay tức thì và không theo nữa - Tôi bắt con hứa một cách kiên quyết, chỉ có thế! Tôi không phải trục vong, cháu Hương về nhà ngay hôm ấy ăn ngủ trở lại bình thường.

    Tháng bảy âm lịch năm 2008, chị em chúng tôi rộn rịp lo chuẩn bị cúng lễ Vu Lan! Gần đến ngày, đa số chị em đều được ứng báo bằng cách này hay cách khác, tìm đến tôi để cầu xin tiếp xúc với Cửu Huyền - người xin giải nghiệp ngạ quỷ, yêu tinh, người muốn vô Chùa tu, Thần Tổ nghiệp xin giải giáp Binh Gia, người ra mặt để xin cái ăn, cái mặc, các phần Linh căn mắc đọa thì cầu xin ơn Trên cho được trở về núi để tu tập.

    Mỗi năm có một ngày Rằm tháng bảy để con cháu và những người còn sống báo hiếu cho cha Mẹ, ông bà tộc Tổ, những người đã chết! Tôi để cho chị em cúng đốt đồ hàng mã cho thân tộc và chiêu đãi, phúng thí âm vong, mãi lo chuyện người, tôi quên không nghĩ gì đến việc của mình.

    Đêm 14 âm, thấy tôi quên, âm phần của cha và con trai ứng báo hai giấc mơ: tôi thấy mình đi mua đồ cúng âm vong, về qua một ngã rẽ thì gặp Ba mình đang đứng cuốc rẫy. Tôi dừng lại định tìm gì trong giỏ để cho Ba, mò ra chỉ toàn. thuốc lá! (Ba tôi lại chẳng bao giờ hút thuốc)

    Tôi hỏi: “Hiện giờ Ba ra sao, có gì bất ổn nói cho con biết để con lo cho Ba!”. Vừa lúc đó, thấy bên kia đường có hai người đi xe máy qua, Ba tôi chỉ vào họ: “Đó đó! Hai vợ chồng đó là bà con với mình mà họ xấu hết sức, họ tâu rỗi này nọ với ông bà, làm Ba bị rầy mắng hoài!”, chỉ có thế, tôi giật mình thức dậy. Nghiệm ra, Ba tôi bị Cửu Huyền hành!

    Nửa đêm về sáng, ngủ lại tôi mơ thấy giấc mơ thứ hai: Vía thấy mình đang đi trên một đoạn đường vắng vẻ, gặp con trai đang ngồi bắn bi cùng mấy đứa trẻ. Tôi chạy tới ôm con vừ a hôn vừ a khóc, kể: “Từ ngày con chết tới giờ Mẹ mới gặp lại con, Mẹ nhớ con biết bao nhiêu!”, cháu có vẻ ngượng, đứng lên đi bên tôi. sờ vào trán con thấy hâm hấp sốt, tôi hỏi: ‘Con còn bệnh, còn đau phải không?

    Sao không nói cho Mẹ biết để Mẹ chữa cho con?”. Con tôi nói: “Ai mà không có bệnh, Mẹ ơi! Giờ con bớt nhiều rồi thỉnh thoảng đau chút xíu thôi!”. Đến đó, tôi chợt thức.

    Nhờ vậy, hôm sau tôi mới nhớ mua quần áo cho Ba và con trai của mình!

    Qua thời gian, tôi biết rằng âm hồn cũng đau bệnh như xác trần, những bệnh lúc chết hồn mang theo đủ. Qua hậu kiếp, có người bị những bệnh chứng bất thường, dai dẳng mà bệnh viện không tìm ra được... Nỗi đau đớn nghi ệt ngã của vong hồn làm gì có bác sĩ hay bệnh viện nào chữa được! Chỉ có tấm lòng người còn sống thi ân bố đức để cầu xin giải bớt nghiệp quả cho người chết thì mới có tác dụng. Vì nỗi cảm thương ấy mà tôi trở thành “Bà thầy chữa” cho cả hai cõi hữu hình lẫn vô hình. Bàn tay phép của các Đấng chữa bệnh cho âm phần còn nhanh hơn chữa cho người sống, giải nghiệp cho người âm có tác dụng tối đa, với người dương thế nhân quả tạo tác “còn nguyên dưới ánh m ặt trời”, các Đấng cũng khó bề xoay chuyển!

    Má tôi, đầu năm 2007 bắt đầu hành bệnh tim mạch nặng! Huyết áp lên xuống bất thường, nôn ói, ngất xỉu nằm mê man hoặc đưa đi cấp cứu hoài... Hôm ấy má trở bệnh, các em gọi taxi đi bệnh viện, nhắn tôi xuống nhà đưa không vô được!”. Đáp: “Tôi đi cấp cứu!”. Bác sĩ hỏi: “Cấp cứu ai?”. Đáp: “Cấp cứu tôi! Tôi bị tim mới vừa xỉu!”, “Bà đi đứng bình thường vậy mà tim gì. Đâu lên nằm coi!”. Bác sĩ kiểm tra huyết áp, tim mạch: hoàn toàn bình thường! Má tôi bị đuổi về.

    Leo lên xe buýt, suốt chặng đường hơn một giờ đồng hồ “tỉnh queo”. Mừng quá nói líu lo suốt buổi. về nhà, các em tôi cười bảo: ‘Má kiếm chuyện để được đi du lịch bằng taxi!”.

    Rồi bệnh dần dần phát liên tục, má tôi thường xuyên làm mệt khó thở, nôn ói và chóng mặt hoài. Ba đêm liền, tôi mơ thấy má chết. Những giấc mơ “ứng báo” bao giờ cũng ngắn và rõ ràng rành mạch, độ chừng năm, mười phút là dứt. Ta tỉnh giấc ngay tức thì và nhớ chẳng sai một chi tiết nào!

    Sợ quá, tôi hằng đêm thắp hương cầu cho má qua cơn nguy kịch, khỏe mạnh trở lại, xin “chịu đau thế”, trả hiếu cho Mẹ mình! Tôi bắt đầu bị y như má: huyết áp biến đổi liên tục, lúc mười bốn, mười lăm, khi chỉ còn có tám, chín. mạch tim có khi nhảy lên đến 116/phút. Lại bị rối loạn tiền đình xây xẩm mặt mày, nằm “li bì” suốt ngày!


    Chiều tới, con trai tôi chở xuống chữa bệnh cho Má, xong rồi. Má nấu cơm dọn sẵn, tôi ăn xong phủi tay đi

    má đi, đợi xe chạy ra đường lớn đỡ dằn xóc, tôi bảo: ‘Con chuyển điện cấp cứu cho má đây, má ráng trụ thần mà về!

    Tôi nằm đúng sáu tháng, tròn nửa năm. Tôi nằm đến nhận nghe!”. Má tôi tỉnh dần, khỏe lại. Tới bệnh viện, xe chạy thẳng vô phòng cấp cứu, má tôi xuống xe đi tỉnh bơ vô trong, bị bác sĩ chặn lại: “Đây là phòng cấp cứu, đâu, Má khỏe đến đó! Tuy nhiên, cũng có điều trị thêm bằng thuốc tây. Hú hồn! May không thì tôi mất Mẹ.

    Dạo này Má tôi khỏe nhiều, tim mạch ổn, tôi chỉ chữa cho Má khi nào tim “trở chứng”, Má vẫn phải uống thêm thuốc tây!

    Má tôi cũng có học nhân điện, tự chữa được cho mình và con cháu những bệnh thông thường, bệnh nặng thì Má kêu tôi xuống chữa.

    Khi bệnh cấp tính, thường người ta lo sợ bất an, không tỉnh tâm để trụ thần nhận điện, vì vậy chữa ít tác dụng. Lúc ấy, phải nhờ Huynh đệ khác hỗ trợ. Nhiều lần Má tôi trở bệnh làm mệt, các em điện báo, tôi ngồi trụ thần chuyển điện cấp cứu, lát sau xuống nhà thấy Má đã tỉnh táo, ngồi dậy và ăn uống được rồi!

    Một ngày nọ Má muốn tôi cùng đi siêu thị để mua một xấp vải may đồ đi ăn cưới, đi bằng xe buýt. Má đâu bi ết tôi đang váng đầu và đau nhừ cả người.

    Tôi từ chối, bị Má mắng: “Mày vì mọi người thì được, vì Má một chút không được sao?”. Tôi đành đi với Má, vừa đi vừa kêu ca trong bụng: “Mẹ ơi! Con mệt quá, Mẹ cứu con cho xe buýt đừng có chạy!”. Miệng khấn mà dạ buồn cười: ‘Xe tại trạm gốc cứ năm phút chạy một chuyến. Ba tuyến xe chạy liên tục, mi. “chết chắc” rồi!”.


    Thế mà điều gì xảy ra, các bạn có biết không: ba chuyến xe qua, đều là xe Chợ Lớn! Tôi nói: “Chuyến nữa không có thì về nghen Má!”. Chuyến thứ tư: cũng Chợ

    HMLK tập 1), nhà cũ cho người khác mướn lại. Trong nhà ấy có hai đứa bé: đứa 17 tháng và đứa 7 tháng tuổi.

    Một đêm nọ, lúc 22g30, cô Tiến (học viên Nhân điện) ở nhà kế bên, điện xuống cho tôi bảo: ‘Nhà bên ấy có thằng bé cứ khóc liên tục, hai ngày đêm rồi, em hỏi Điển thì được báo là do Cửu Huyền hai bên của chị và gia đình đó tranh chấp với nhau, thằng bé sợ nên khóc suốt”. Nghe vậy, tôi trụ thần chuyển Vía về nhà, thấy đứa bé 7 tháng tuổi ngủ yên, sang đứa lớn thì thấy cháu đang khóc vã mồ hôi, mệt lữ. Tôi giải âm phần, đẩy ra khỏi nhà, quay lại đặt bé nằm xuống giường, cho điện làm ngủ. Vía thấy bé ngủ được ngay tức thì!

    Sáng ra cô Tiến xuống nhà, lúc ấy tôi đi vắng! Trưa về Ti ến điện bảo: “Hôm nay xuống nhà không có chị, em thấy Bà Nội chị với một toán phần âm bên nội đứng ngoài đường, còn Ba chị với Ông Nội thì ở trong nhà!”. Tiến bảo:

    “Sau khi chị trục vong một lát thì thằng bé ngủ, sáng nay không còn nghe khóc nữa!”. Cô Tiến giỏi thật! Tôi có nói gì về chuyện riêng của gia đình mình đâu: nguyên Bà nội tôi lúc sinh thời có thề độc là không bao giờ nhìn chị em chúng tôi (vì ba má tự ý lấy nhau, không theo đặt để của cha Mẹ). Ông nội thì thương, thỉnh thoảng ở quê vẫn lên thăm. Khi Ba chết, tôi đưa về trên này thờ, Ông nội đi Lớn!

    Hai Mẹ con đi về, tôi mừng trong bụng mà đâu dám theo. Mãi về sau này tôi mới được âm vong của Ba báo cho biết, mỗi bữa cơm tôi vẫn mời Ông với Ba về ăn cùng! nói, sợ lại bị mắng! Nghĩ hoài, chẳng biết tại sao. Chắc mấy chiếc xe tuyến Sài Gòn bể bánh hết trơn rồi.

    Tháng 8/2007, khi tôi đi ở nhà thuê (chuyện đã kể ở trên)

    Tôi nhất định “vờ” như không biết chuyện gì, vì thế mà trong suốt một thời gian dài hơn hai năm, tôi bị Cửu Huyền hành rất dữ. Tôi sợ rước vong Bà Nội vào nhà, bà không ưa cháu chắc sẽ bị đòn nhiều hơn nữa, cho đến một ngày.

    Dì Út (nhà ở Chợ Lớn), thỉnh thoảng vẫn hay lên nhờ tôi đủ chuyện “trên trời dưới đất”. Bỗng nhiên hôm ấy tới nhà tôi, vừa mới ngồi năm phút đã có phần Điển Trên nhập về. Dì Út “lên giọng” phán một hơi: ‘Phải thỉnh bài vị Cửu Huyền về mà thờ! Làm việc với Cửu Huyền trăm họ mà thiếu lễ với ông bà của mình thì còn bị đòn suốt kiếp!”. Chỉ một câu làm tôi sực tỉnh, tôi thỉnh bài vị Cửu Huyền về thượng trang, cúng cho Ông Bà Nội chiếc áo dài bằng giấy màu xanh dương thêu rồng phụng rất đẹp.

    Đêm ấy, tôi thấy Bà Nội về ngồi đĩnh đạc trên ghế, mắt nhìn lên bàn thờ, chiếc áo “hàng mã” hóa thành áo dài nhung màu xanh dương sang trọng!

    Điển ông nói khẽ vào tai: “Bà muốn nói chuyện với em!”. Tôi không dám lên tiếng, khoát tay ra dấu, lắc đầu hết nữa là!”. Phần tôi, kinh nghiệm hăm mấy năm cho biết: trăm sự nghịch thường đa số đều do bàn tay của Cửu Huyền!

    Thờ không phải cách: bị hành! Phải cách không thờ: bị hành! Vướng tuổi Cửu Huyền: bị hành! Nghịch mạng vô nghì bị hành cũng phải đi. Bằng chuyên tâm tu tập, đạo đức trong một dòng tộc đầy những âm vong ngạ quỷ cũng bị đòn chết thôi!

    Ông bà xưa hay nói: “Trần sao âm vậy!”, quả là đúng, kẻ còn sống chẳng ra gì, chết đi rồi bảo nên làm sao được! Những kẻ độc ác vô lương, chết thành ông, thành bà. đương nhiên cũng là Cửu Huyền ác ôn, hành hà con cháu mà thôi, khác làm sao được!

    Giận nhất là loại này, người đang bị Cửu Huyền hành, tôi đưa tay ra cứu là bị đòn trả dữ lắm! Họ thì cứ nhơn nhơn ra vẻ: ‘Con cháu ta ta đánh, mi làm gì được

    lia lịa. Chiều hôm sau con trai tôi về bảo Mẹ trục phần âm cho, lại thấy Bà đứng sẵn đó rồi! Tôi trốn không được ta?”

    Chương này kể đã dài, xin ngưng ở đây, kẻo các bạn nữa, phải chào thưa Bà cho phải phép, Bà không nói gì, bước tới đặt vào lòng tay tôi một nắm cát, xong lại đặt lên trên một giề đất sét, rồi quay lưng biến mất!

    Tôi ngồi nghĩ mất năm phút: “À! Ra Bà nội cho điền sản đây, xứ Vĩnh Kim, Trà Vinh toàn gió cát và đất bạc màu. Bên Nội tôi có nhiều đất lắm, đất giồng cao quanh năm nắng gió, cây trồng còn không sống nổi, có nhiều đất cũng bằng thừa.

    Vậy đó! Người trần thế hay có quan niệm: “Không có ông bà nào lại hành con cháu! Ông bà cho con cháu không đọc đến chán mất thôi!

    THỰC HÀNH CỤ THỂ (11)

    Cô K., có văn phòng môi giới bất động sản ở Hóc Môn, một hôm nhờ người quen dẫn ra gặp tôi, xin Ơn Trên về gi ải dùm nghiệp chướng - cô thú thực là mình yêu người đàn ông có vợ! Trong lúc cô cũng đang có chồng con đàng hoàng, hạnh phúc và mãn nguyện. Trái tim ngã nhưng lý trí không cho phép, cô đã chạy vạy khắp nơi tìm thầy để gi ải oan nghiệp, nhưng chẳng tác dụng gì.

    Tôi nhìn cô, thấy ngay phần Linh căn một nữ Thánh tu, khuôn mặt đẹp thanh tú giống y như Đức Mẹ Maria, với mái tóc thề bỏ xõa!

    Tôi mời Linh căn về cho tiếp xúc và xin góp ý trong hoàn cảnh này, nữ Thánh ấy tới bên tôi quỳ xuống nói nhỏ vào tai: “Con có ý vầy! Bên bỏ chồng bên bỏ vợ lấy nhau là xong. Chúng con có tiền duyên, xuống đây tìm nhau mà gặp nghịch cảnh nên mới khổ vậy đó!”.

    Ngay tức thì, tôi thấy Mẹ Quán Âm nhập vào, người đưa tay nâng cằm cô gái lên: “Khuôn mặt trông xinh đẹp vậy mà đê tiện. Muốn phá nát gia cang người ta sao... Đi về cung Nội Đâu Suất ta cho quỳ đội đèn. Biến!”. Lời vừa dứt, nữ Thánh Cô biến mất tiêu!

    Quay lại, Mẹ Quán Âm nói: “Ta giải nghiệp chướng cho con, ráng mà sống cho tốt với chồng con nghe chưa!”.

    Vung tay, đưa Điển vào đỉnh đầu cô K, xong Phật Bà rời đi.

    Chuyện nghe như đùa vậy thôi! Thế mà ngay tối hôm sau, cô K. ra nhà tôi, mừng vui báo tin: ‘Mẹ Quan Âm gi ải xong, sáng hôm sau em nhìn thấy ông ấy bỗng dưng nghe... lạt nhách, không còn chút nào tình yêu thương, si mê nữa! Đến nỗi ổng ngạc nhiên hỏi em tại sao qua có một đêm mà em thay đổi 180 độ như vậy - Em chỉ cười không nói gì cả mà trong lòng nghe nhẹ bâng, chị ơi!”.

    Khi cô K. tới, tôi thấy có vong một bé trai chừng dưới hai tuổi trần truồng đứng kề bên. Tôi hỏi thì bé chỉ vào cô K. bảo là Mẹ của mình. Tôi hỏi, cô K. nói: “Đi coi thầy, thầy nói nó là Trạng, bảo em lập bàn thờ đàng hoàng cúng áo mão cân đai đủ thứ. Sao giờ lại trần truồng?”. Tôi giải thích: ‘Nó là âm vong, không phải Trạng, cúng đồ Tr ạng nó không mặc được nên mới trần truồng như vậy đó!”.

    Để cho cô K. tin, tôi đặt tay lên đỉnh đầu hỏi Điển. Đầu cô tự lắc ứng báo rành rành, có người bạn gái của cô ngồi bên làm chứng, tự cô K. cũng nghe thấy đầu mình lắc. Thế là tôi xin Điển Trên cho ngày giờ linh ứng để cô K. xóa trang thờ Trạng và đưa vong đi đầu thai...

    Lần sau cô K. đến, tôi thấy có một người đàn bà vong ngạ quỷ theo sau, ra vẻ đau đớn lắm. Bà bảo là Mẹ chồng của cô. Quả nhiên cô K. nhận là mình có Mẹ chồng chết do bệnh ung thư tử cung!

    Một thời gian sau, cô K. dẫn vào một đứa cháu trai gọi bằng Dì, quê ở tận ngoài Trung.

    Cậu bé học lớp mười, bị động kinh từ năm sáu tuổi, không thuốc nào trị hết được! Trông cậu bé mà xót xa: tay chân ốm trơ xương và gân, người bé loắt choắt chỉ độ bảy, tám tuổi - Có ngày bị động kinh năm, sáu lần, mỗi lúc lên cơn ra vẻ kinh hoảng tột độ, chạy tìm người lớn ôm cứng lấy và la cầu cứu, chừng qua hết cơn thì trở lại bình thường, học giỏi nữa mới lạ!

    Tôi trụ thần nhìn thấy một người đàn ông phần trên cổ là một đầu rồng màu xanh lục đậm, tôi chào - mời vào nhà! Người ấy không vào, chỉ đứng ngoài sân. bảo với tôi: “Thằng bé ấy hồi học mẫu giáo bị té sông, tôi cứu cháu sống đó, tôi là Thần Rồng!”. Tôi hỏi: ‘Chắc phần hồn của cháu thấy ông theo hoài nên sợ mà động kinh phải không?”. Ông lắc đầu: “Không phải tôi, kia kìa!”. Tôi nhìn ra ngoài đường thấy hai con vật dị thường, đưa tay vẫy, chúng lập tức bò vào...

    Trông vẻ ngoài giống như loài bạch tuột da màu đen bóng nhẩy, với những xúc tu thật dài, trên những đầu vòi trơn tuồn tuột ấy, không thấy có giác hút như của các loài mực. Hai con mắt bé xíu tròn xoe màu đỏ hồng, nhướng lên, nhìn tôi trông vẻ “ngây thơ vô số tội”! Chúng bò đến đâu, kéo theo sau lưng những vệt nhớt nhầy màu xám bạc.

    Tôi ngẩn ra, không biết gọi chúng là gì nữa: ông hay bà, đực hay cái? Sau tôi xin tiếp Điển (là kiểu giao tiếp chung bằng tư tưởng), biết chúng là loài mà ông bà ta xưa truyền miệng hay gọi là “Ma da”, chuyên ở dưới nước và quấn siết người, dìm cho đến chết!

    Cô K. nhận đúng vào lúc bé còn học mẫu giáo đã bị té sông một lần, có người trông thấy kêu lên cầu cứu, cậu của đứa bé bơi ra vớt được, may mà còn sống.

    Tôi sực hiểu, thì ra số cậu bé đã chết năm xưa, nhưng vì ông Thần Rồng nhìn thấy thương tình cứu sống. Hai con Mada (một cha một con) không làm tròn nhiệm vụ nên cứ lẽo đẽo bò theo đòi mạng hoài, hồn thằng bé sợ nên bị động kinh.

    Trước tiên, tôi dụng kế hoãn binh, nói: “Tôi biết các ngươi chỉ làm nhiệm vụ ở dưới nước quen rồi, giờ lên bộ như vậy khổ sở lắm. Tội nghiệp quá, để tôi xin chiêu đãi một lần cho đỡ đói nha!”. Chúng đòi ăn cá lóc và cua đồng, rau thì đòi “cỏ bợ” (còn có tên là rau dừa nước).

    Thấy khó tìm, tôi đề nghị đổi rau muống nước chúng cũng chịu. Đòi mua đồ sống khấn cúng xong rồi đem ra sông thả! Bánh trái tiền vàng bạc nén chúng chê bảo là không dùng được, thì ra “đàn dưới” không sử dụng được lộc thực của “đàn trên”.

    Sau đó, tôi chữa thêm có bốn, năm lần cậu bé hết động kinh! Nhưng tôi biết nếu trở về quê hoặc nơi gần sông nước sẽ bị lại như cũ, nên khuyên cô K. thu xếp cho cháu về thành phố, tránh xa vùng sông nước.

    Kinh nghiệm nhiều năm cho tôi biết: quyền lực của các Đấng chỉ hiệu nghiệm với cõi trên, cõi hữu hình và cõi vô hình (loại sống ngoài vòng địa ngục). Cõi dưới nước (Thủy Cung) và Diêm Cung (địa ngục) là nơi quyền phép bất lực, tương tự như “rừng nào cọp ấy” vậy mà.

    Còn một điều nữa: ở ‘Đạo giới” khác cũng cần phải thận trọng khi điều tra, hành xử hay phá án, giống như họ ở trong một “Khu tự trị” riêng! Phép của nhà Phật không thâm nhập được vào nơi thờ cúng của Đạo Chúa hay Địa Tiên, Hòa Hảo, Cao Đài... Tuy nhiên, nếu khéo léo, ta vẫn có thể xin sự hỗ trợ của các Đấng Chủ Quản!

    Chuyện này tôi sẽ chứng minh cùng các bạn ở chương sau, thập phần lý thú!

    Chồng cô Bình (học viên Nhân điện) bị đau bụng tiêu chảy liên miên cả tuần lễ liền, uống thuốc chi cũng không cầm! Tới tôi, nghiệm ra do âm vong quấy phá - Tôi truy bắt ra 3 tên ngạ quỷ! Chúng xưng mình là 3 vị Th ần có tội bị lưu đày mang hình tướng quỷ, hiện đang ở chỗ chồng cô Bình làm việc. Họ vẽ cho tôi thấy một nơi dơ bẩn, nước đen ngòm, tro than chất hàng đống, 3 âm vong đứng dầm chân trong bùn dưới một gốc cây trông rất thương tâm!

    Tôi tả lại địa điểm mình nhìn thấy, cậu nhận đúng là nơi cậu đang làm than đá! 3 âm vong xin tôi hỗ trợ cho dời sang phía trước mặt có một xưởng cơ khí, nơi mặt tiền sạch sẽ khang trang hơn.

    Tôi bày cho cậu về nhà cúng một đĩa tam sên, trà rượu và ít tiền bạc chiêu đãi cho 3 vị Thần, kẻo họ đói khát mà tội! Phần tôi xin phép Mẹ Diêu Trì cho chuyển 3 vị ấy sang bên kia đường. Chỉ có thế, tôi chữa một lần cậu giảm bệnh ngay lập tức, chữa thêm hai ngày, hai lần nữa cho chắc chắn, là xong.

    Cô L. (học viên Nhân điện) ngày trước rất hay bị phần âm phá. Cả gia đình: cha Mẹ, anh chị em và các cháu gặp hoạn nạn thất thường đến “thất điên bát đảo”. Suốt hai năm trời, tôi chống chỏi cũng muốn khùng theo!

    Ngày xưa trong tộc Tổ có người làm Thầy Bùa, Thầy Pháp chi đó không biết, miếu thờ Tổ nghiệp vẫn còn bên nhà người chú, binh tướng thì tản mác mỗi nơi một ít, bên nhà cô L. có hai Thần Tổ nghiệp cùng 120 binh tướng, vong hồn chiến sĩ cũng đầy. Nghiệp Tổ truyền đời, nếu không có người nối dõi, con cháu bị hành ghê gớm lắm.

    Đời nào cũng có người điên loạn, giở người!...

    Cô L. có phần Linh căn là Thánh Cô, đệ tử của Trì Địa Bồ Tát, chắc cũng có chút tội mới sinh vào trong nhà có toàn Linh căn là Thần cách: Cha Thần, anh Cả Thần, chị gái cũng Thần, còn một đứa em trai cũng là Thần cách nốt! Mẹ của cô L. lại có Linh căn là Thánh Mẹ... Cô L. người trắng trẻo, xinh xắn, gần ba mươi tuổi chưa có gia đình, cũng không có bạn trai hay người yêu!

    Nhân duyên đến lúc muốn chuyển căn theo đường Đạo thường phải chịu nạn tai dồn dập. có thế xác trần mới ngộ được sự vô thường mà lo tu! Một hôm cô L. bị lên cơn động kinh, tôi chữa (gián tiếp qua điện thoại) cứ xuống cơn chừng mươi phút lại lên. Người nhà điện gọi liên tục, tôi nhờ A. Ch (huynh trưởng nhân điện) chữa cũng chẳng ăn thua. Vật vã từ trưa đến tối thì hết, từ đó chỉ ôm mặt khóc, ai hỏi gì chẳng đáp được câu nào!

    Sau cô L. sợ quá theo tôi học Nhân điện, vừa mở luân xa, Linh căn đã về, xư ng là Thánh cô tu ở cung Ngoại Đâu Suất! Lúc đó, gia đình cô L. đang ở vào thời nạn tai dồn dập vô phương chống đỡ. Người trong nhà trở chứng này, bệnh nọ đột ngột hoài thuốc men cũng chẳng ăn thua! Mỗi người bệnh đưa xuống tôi lại mò ra một Thần cách, hai đứa cháu trai đều là Thánh. Phải nói là một gia đình kỳ lạ!

    Bây giờ tôi mới hiểu lời Mẹ giảng như thế nào là Pháp chi đó - Có thờ cúng linh tinh và bàn thờ lạ cách “cộng nghiệp”: có cùng một nghiệp mới sinh vào chung một nhà làm cha Mẹ, vợ chồng, con cái. để cùng chịu lắm!

    Cô L. nhận là Bà cụ nhà đó làm Thầy có trang thờ hai những chướng nghiệp như nhau!

    Anh cả của L., cậu P. vốn là em kết nghĩa của tôi từ mười lăm năm nay, sau này khi L. học Nhân điện, tôi thương L. còn hơn em ruột của mình - Vì thấy cô em suốt ngày lủi thủi trong nhà chịu thương chịu khó, người lại xinh xắn giỏi dang.

    Suốt một thời gian dài, người trong nhà liên tục đổ bệnh, nhữ ng bệnh chứng bất thường mà thuốc men chẳng ăn thua gì! Khi đưa xuống tôi, tôi khống chế được cũng chẳng dễ dàng, và “chịu đau thế” cũng không ít. Gần hai năm, sau nhiều lần vận động, Thần Tổ nghiệp mới bằng lòng cho “giải giáp binh gia”, đưa 120 binh vào Chùa gởi, từ đó mới yên ổn trở lại.

    Một ngày, cô L. hỏi ý kiến tôi xem có nên trở lại may gia công cho cửa tiệm của một người quen cũ hay không.

    Tôi trụ thần, thấy cô chủ tiệm may ấy tốt và quý L. lắm, tôi khuyên L. nên đồng ý! (Lúc này cô L. đã học Nhân điện đến lớp 10, trình độ tâm linh cũng cao)

    Vừa làm được một ngày, sang ngày thứ hai cô L. đã bị hành nôn mửa liên miên. Cô L. điện mấy lần, nhưng lúc đó tôi đi vắng đến 7 giờ tối mới về - Tra rõ căn nguyên, tôi biết rõ bệnh trạng không phải của xác trần, mà do phần âm phá! Tôi bảo cô L. trụ thần nhìn vào chỗ nhà may, nơi cô đang may gia công. Theo đó, tôi đưa Điển vào kiểm tra, thấy trong nhà có người làm Thầy Bùa Thầy Cậu Trạng. Nghe vậy tôi biết ngay là bị Tr ạng hành! Âm phần không thể phá cô L. được đến vậy.

    Tôi biết các vị có chức danh Trạng thường tài giỏi và kiêu ngạo lắm. Thấy cô L. có khai mở tâm linh nên cho phép vào đánh chơi “cho biết mặt”!

    Người học Nhân Điện được khai mở tâm linh có nhiều điều lợi, song cũng có điều bất lợi là thu hút tà lực, giống như khối nam châm có từ tính vậy.

    Tôi bày cô L. cúng một đĩa tam sên ở nhà L., xin tạ lỗi với hai Cậu Trạng, vì đã đến đó làm việc mà không xin phép “Quan lớn”.

    Chiều hôm sau nữa cô L. xuống nhà tôi, tôi trụ thần thấy theo sau là hai cụ già hom hem mặc áo thụng màu đen! Khi tôi hỏi, họ xưng là hai Trạng ở nhà may, ngạc nhiên tôi hỏi: “Hôm qua đã cúng xin lỗi rồi, chả lẽ chưa bằng lòng sao các người còn đến đây?”. Một ông bảo: “Chúng tôi không nhận được lễ vì lễ cúng Trạng Cậu, còn chúng tôi là Trạng Ông!”.

    Trời đất! Lại còn đến thế nữa - Xưa nay tôi chỉ nghe Cậu Trạng, Cô Trạng nhỏ xíu, hoặc nam trung, có nghe “Ông Trạng bao giờ!”. Thôi thì cũng uốn lưỡi hạ gi ọng năn nỉ. Hai ông bảo: “Chúng tôi chỉ tới chào cô Hai thế thôi, có bắt bẻ gì đâu! ”. Nói rồi chào ra đi.

    Người trần thế, hoặc các vị làm thầy: Thầy Bùa, Thầy Pháp, Thầy Cúng chi đó. thường cứ theo phép Tổ mà làm, đâu biết các cõi muôn hình vạn trạng, kẻ có nhiều tài phép thường sinh tâm ngạo mạn ức hiếp, áp đảo người cô thế chẳng chừa một ai! Đến lúc tội ác đã dầy, Trên xử tiêu hồn lạc phách. Xác trần cậy thế làm oai, đem quyền thế biến ra lộc thực, lộc càng dầy thì tội càng nặng, đời con đời cháu ngày sau vướng nghiệp Tổ tông hoạn nạn, tật ách triền miên biết đến bao giờ cho hết.

    Tôi nói đây cũng phải xin lỗi các vị làm Thầy, chẳng phải thầy nào cũng cốt vì lợi lộc riêng tư! Nhiều người cả đời lấy binh pháp mà cứu nhân độ thế, lợi danh chẳng màng. Họ là những Thần thánh giáng phàm, quả phúc dồn góp, đời sau con cháu thọ lộc Tổ tông làm nên danh phận mà rạng rỡ tông môn!

    Nếu ai có chút tài mọn, cũng đem nó ra mà hy sinh, mà cống hiến, thì nhân loại ắt đã hòa bình hạnh lạc, chúng sinh đều được an vui.

    Các vị Thầy Pháp có phép thu hồn, họ đi đến các nơi nghĩa trang, đền Chùa miếu mạo bắt giữ các vong hồn lang thang đem về làm binh tướng cho mình, sử dụng làm công cụ phục vụ, cũng còn may cho các cô hồn, vì họ biết mình có binh, có tướng, mỗi tháng cúng cho ăn một lần.

    Riêng những vị làm Thầy theo nghiệp Tổ tông, không biết mình đang sở hữu bao nhiêu là binh, tướng, chẳng biết đâu mà cho ăn, cho mặc. Bùa phép đưa ra không biết cân phân phải trái, nên hư. Cũng không biết mình đang có bao nhiêu âm binh đi theo phục vụ vô điều kiện cho mình!

    Binh cho đi chẳng thâu về, những vong hồn xiêu lạc bị trói buộc vào lệnh phù quẩn quanh tại chỗ... Rồi có khi chủ cũ rời đi, chủ mới đến ở, binh đói khát lang thang trong nhà quấy phá làm ra hoạn nạn, tai ương. tội cho “người ngay mắc nạn”!

    Tôi cũng muốn nhân đây, vì lòng nhân đạo, gióng lên một tiếng chuông - cầu xin các vị làm Thầy: tất cả bùa chú hay lá phép đưa ra đều có binh án theo... Khi ra phép, xin ghi chép lại cho kỹ lưỡng ngày giờ năm tháng sau một thời gian phù hợp - ‘Đưa binh đi, xin nhớ đón binh về”, đừng để hồn xiêu phách lạc lang thang. Binh đưa đi hết chẳng thu về, mai không còn binh nữa, phép sẽ không thiêng, các vị Thần Tổ nghiệp phải thân chinh, nạn khó cũng vô chừng!

    Phần nữa: mỗi tháng nên cúng cho binh tướng ăn một lần, đừng để họ đói mà tội nghiệp! Khi tuổi cao sức yếu hoặc muốn bỏ nghề, nên vì lòng nhân mà dâng lễ lên nghiệp Tổ nghi ệp tông xin cho giải giáp binh gia, trả họ về đời sống tự do, đừng giam giữ oan hồn đời này sang đời khác mà vướng nghiệp quả nặng nề cho con cháu đời sau!

    Mỗi tháng nên cúng vào ngày 13 âm lịch, cúng riêng hai nơi: Tổ nghiệp cúng trên bàn thờ Tổ hoặc bàn thờ Cửu Huyền, binh gia cúng bàn thấp đặt ở dưới! Cúng ngày 13 hoặc mùng 2, 16 (đúng giờ Ngọ: từ 11g15 đến 13 giờ).

    Tôi cũng xin nhắc các bạn đọc: Tất cả các loại cỗ lễ như giỗ chạp, cúng Vía ngày rằm, mùng 1, cúng cô hồn hay thượng trang. đều phải cúng đúng ngọ. Ngoài ra, cúng âm hay cúng cầu giải hạn, xả xui, ta cúng vào “giờ âm”, có nghĩa là từ 19g15 tối trở đi!

    Lễ cúng Nghiệp Tổ, Thần Tổ:

    - Một đĩa tam sên, hoa trái, 2 trà, 2 rượu, tiền vàng, 2 bát gạo (thêm cà phê hay thuốc hút.)

    Cúng chiêu đãi binh gia:

    - 1 gói thuốc hút (nếu trong nhà không có người hút thì thôi)

    Để quẹt gas kế bên

    - Khoai củ, bánh trái, tiền bạc

    4,5 bát gạo đầy. tùy lòng hảo tâm mà ta cho nhiều hay ít

    Nên cúng những thứ “ăn để no” như: bánh tét, bánh chưng, bánh mì hay cơm cháo...

    Nếu có lòng, ta nấu 1 mâm cơm thịnh soạn mà cúng cả chư Th ần Tổ nghiệp lẫn binh gia, cúng xong ta ăn tất cả, không phải kiêng kỵ chút nào!

    Người xưa nay truyền miệng rằng không được ăn cỗ cúng cô hồn (ăn đồ cúng vong thì nói vong không nghe), ho ặc chỉ cúng cháo loãng, không nêm nếm gì. (ngạ quỷ cần cổ bằng sợi chỉ, không nuốt được)! Nếu ta cúng vào đúng ngọ hoặc giờ âm, vong hồn sẽ nhận và ăn được các thứ, ta chỉ đốt hóa tiền vàng, các thứ còn lại đem vào ăn cả, không bỏ thứ gì!

    Đây chỉ là cỗ lễ đơn giản nhất mà tôi biết, xin viết ra đây để bày giúp cho các vị Thầy (là nói về các vị làm thầy theo nghiệp Tổ tông, không rành lễ tiết). Riêng các vị theo thầy học đạo thì tùy theo chi phái mà có lễ tiết riêng. Các vị Thầy Tổ đã chỉ vẽ đầy đủ cả rồi!!

    LIÊU TRAI (9)

    Phải rất lâu, tôi mới tin điều mình nghe thấy là thực: căn nhà của tôi (gian bếp không có la phông), nếu vào lúc trời mưa đột ngột nửa đêm trong nhà đang đóng kín cửa thì không có gì lạ! Nếu mưa lúc ban ngày (khi c ửa đang còn mở). Đóng cửa xong, xuống bếp, tôi luôn nghe có nhiều tiếng người nói lao xao, già trẻ lớn bé đủ cả: tiếng cao giọng rổn rảng, tiếng the thé, khàn khàn, tiếng trong trẻo của cô gái, tiếng trẻ nít líu lo ngân vang. rõ mồn một! Có điều lạ là khi lắng tai nghe, tôi không nghe được câu nào cho rõ, cứ như ai đó nói bằng thứ tiếng gì đó rất lạ!

    Tôi đã nghiệm rất nhiều lần, vẫn chưa biết tin vào đâu: khi trời mưa lúc nửa đêm trong căn nhà cửa kín thì không nghe tiếng người nói như vậy! Cho đến một ngày, vào buổi trưa độ hai, ba giờ - tôi đang nằm nghỉ trưa thì trời đổ mưa rào, bất chợt nghe nhiều tiếng lao xao... Vía tôi nhìn ra cửa, thấy một tốp người rất đông (đến hơn hai chục), họ kéo nhau vào dưới hiên nhà tôi trú mưa, rõ là “cái bang bị gậy”: già trẻ, lớn bé đủ cả, người chống gậy cà nhắc, người bò lết dưới đất, ăn mặc tơi tả, rách nát, đầu bù tóc rối. trông còn thảm thương hơn những người hành khất ta hay gặp bên đường!

    Có lần tôi nghe rất nhiều tiếng nói như vậy trong nhà mình, trời mưa càng lớn tiếng nói càng to đến đinh tai nhức óc, tôi sợ quá, vẫn cố lên giọng nạt một tiếng lớn:

    “Im lặng! Vô nhà người ta đụt mưa thì đụt, nói lung tung nghe điếc tai, tôi đuổi ra mưa hết bây giờ!”. Tất cả các tiếng nói lạ kia im bặt, chỉ còn lại tiếng mưa rơi sầm sập trên mái nhà.

    Chỉ vài phút sau, tiếng nói lại lao xao trổi lên, tôi thua! Đành lòng nào đuổi họ ra khỏi nhà khi ngoài trời đang mưa lớn! Đợi hết mưa tôi mở cửa trục ra kẻo không họ lẩn lút ở lại, phá đến sập nhà mất!

    Chẳng biết có ai nghe thấy, cảm giác giống như tôi hay không, bạn cứ tưởng tượng như đang lạc vào một đất nước xa lạ đầy người nào đó, trong khi mắt đang nhắm cho họ.

    Một ngày nọ, cũng trong lúc tôi nằm nghỉ trưa, đang “lơ mơ” chợt thấy cửa xịch mở, có hai ông bà lão bước vào! Hai cụ trạc tuổi hơn bảy mươi, người hom hem, ông chống gậy trúc, bà vị n vai ông, cả hai mặc áo dài gấm đồng tiền màu xanh rêu. Bà kể: hai vợ chồng nguyên là thổ địa trong đất này, hiện đang ở sau nhà tôi, chỗ cây chùm mứt có tổ mối đùn ở dưới gốc, nay nghe tôi sắp xây hai phòng trọ ở đó, ồn ào và ô uế quá họ không chịu được, xin tôi cho dời đi chỗ khác. Tôi hỏi muốn dời đi đâu thì họ bảo: ‘Gốc cây ngọc lan trước nhà cô, nơi đó sạch sẽ. Xin vậy!

    Năm xưa, dạo tôi chưa biết nhiều về Điển trên và cho phép tôi dời ra đó, nhưng cô phải dâng lễ để xin chuyển thì chúng tôi mới đi được! Lễ ngày 13: hoa, trái,

    các chuyện thuộc về tâm linh, cũng không biết âm vong, âm hồn là gì. Có lần tôi mơ thấy mình đang nằm ngủ trong nhà, bỗng nhiên có rất nhiều người lạ xông vào mang theo gậy gộc, đánh đuổi Mẹ con tôi và đập tan nát đồ đạc chung quanh!

    Vía tôi thấy Mẹ con vừa chạy vừa la cầu cứu. Lại thấy một ông cao to bước vào nạt lên một tiếng, cả bọn người vác gậy chạy mất! Người đàn ông ấy nói: ‘Xin lỗi cô! Họ đói quá nên làm càn đấy thôi”. Khi mọi người đi hết, tôi nhìn lại thì hỡi ôi, nhà cửa tan hoang, mùng mền rách nát, bàn ghế xiêu gãy, bóng điện rơi vỡ tan tành.

    Khi tôi kể lại giấc mơ của mình, Má tôi nói: ‘Đó là cô hồn, họ đói nên họ phá; Người đánh đuổi họ đi là Tiêu Diện Đại Sĩ, người chăn dắt vong hồn!”. Tôi nghe vậy thương quá, bèn mua bánh trái, tiền bạc, gạo muối cúng nước đầy đủ là được rồi”

    Tôi nói: “Hèn nào cô Doanh (người thuê nhà mới sinh con chưa đầy tháng đã chuyển sang nơi ở khác), cô bảo chỗ gò mối bên hông nhà có ông bà khuất mày khuất mặt làm em bé sợ khóc suốt nên không thể ở được!”.

    Bà cụ bảo: ‘Chúng tôi dọa cho cổ sợ mà dời đi. Thứ đàn bà gì hung dữ, ăn hiếp chồng như tinh, ai thấy mà chẳng ghét!” - Thì ra vậy!...

    Sáng ngày 13, tôi bị rối loạn tiền đình, chóng mặt đến không day trở gì được! Đến trưa, con trai về, tôi bảo cháu chở ra chợ mua hoa trái về cúng. Vừa xuống xe, tôi đã choáng váng ngã lăn quay, may mà con trai đỡ kịp!

    Sự đánh đổi là như vậy! Như đã thành lệ, cứ đến ngày cúng rằm hay cỗ lễ gì đó là tôi bị “quay” tối mày tối mặt, không đau nhừ thì cũng rối loạn tiền đình, xây xẩm, buồn nôn. Trên cho đau dồn thử, coi tôi có đủ can đảm chịu đựng mà “thủ lễ” hay không đó mà!

    Nói cho dễ nghe vậy thôi, nhưng sự thực thì “thê thảm” lắm! Những lúc như thế, tôi đạp xe đi trên đường cả người chỉ như cọng rơm trước gió, chỉ chực ngã dúi dụi vào đâu đó. Thần thức lơ mơ nửa tỉnh nửa say! Cứ như có ai đó bóp chặt quả tim không cho thở, người mệt đuối, mồ hôi vã ra như tắm. ai nhìn thấy tôi lúc ấy cũng buông lời thăm hỏi, ái ngại: “Chị bệnh gì mà mệt dữ vậy!”. Tôi chỉ trả lời qua loa rồi thôi!

    Mỗi lần cúng rằm tôi phải đạp xe đi chợ đến ba lần, trên tay lúc nào cũng có chiếc khăn lông nhỏ, ướt đẫm vì mồ hôi của chính mình!

    Có một điều “bất bình thường” nữa là tôi không thể đến những nơi đông người lui tới, hơi người và cảnh chen chúc, tiếng động làm tôi choáng váng và khó thở! Ngay từ lúc còn là cô gái trẻ trung và khỏe mạnh, mỗi khi đi xe đò hay đám tiệc, tôi luôn phải tìm một chỗ vắng, hoặc chí ít chỗ bên cạnh không có người... Mua vé vào rạp xem phim, nếu phải ngồi vào chỗ đông người, thà tôi bỏ vé ra về chứ không “chịu trận” được đến cuối.

    Sự sống và tồn tại đối với tôi chỉ như một cực hình, hạnh phúc và cứu cánh chỉ là sự rời bỏ, nằm xuống và yên nghỉ. Tất cả mọi thứ mà người đời đam mê, gắn bó, với tôi không có ý nghĩa gì: tiền bạc, công danh sự nghiệp. Khi thiếu thốn đói nghèo cũng cần có dầu chỉ vài đấu gạo, thế nhưng lúc tiền muôn bạc vạn vào tay, tôi vẫn chẳng thấy động tâm hay thỏa mãn! Nói một cách văn hoa: “khô lân chả phượng” không ham, “gấm vóc lụa là” chẳng thiết.

    Có lần tôi về nhà cũ, gọi hồn con trai về để hỏi chuyện. Thấy có vong một người đàn ông trung niên, mang một chân giả! Vong ấy đứng lấp ló ngoài ngõ, ý muốn tìm vào. Tôi thốt lên bâng quơ: “Tôi đang có việc, không rỗi! Làm ơn đừng vào, để lúc khác!”. Một chốc, đã thấy lân la đến gần bên cửa, tôi đành lịch sự mời vào! Ông ta xưng tên là Lê Trí Tâm, 47 tuổi, là Chúa Quỷ của khu này. Nguyên ngày xư a là thủ lĩnh của băng cướp, thuở cả vùng Sài Gòn - Chợ Lớn còn sơ khai...

    Tôi hỏi: “Vậy ra ông chính là vong quỷ một giò khu này truyền tụng xư a nay phải không? Nghiệp ác dày lắm mới làm quỷ bao đời chưa siêu thoát, sao không bỏ dữ làm lành!”. Vong ấy bảo: “Tôi là Chúa Quỷ, tôi chỉ làm theo sắc lệnh!”.

    Từ rất xư a, hơn 30 năm, dạo khu kinh tế giãn dân Trung Mỹ Tây mới thành lập, người dân trong vùng đã truyền tụng với nhau: “Có con quỷ một giò, đi lang thang trong khu này. Hễ nó đứng nhìn vào nhà ai thì nhà đó có loạn!”.

    Quả thế thực! Cả con đường ở chỗ tôi, nếu có nhà nào loạn động thì lát sau sẽ có thêm một, hai vụ ở gần đấy. Có chuyện va chạm xe cộ ho ặc xô xát ngoài đường, từ đó đến tối thế nào cũng thêm một, hai chuyện tương tự!

    Đến nỗi người dân trong xóm ai cũng sợ, bày nhau lập miếu thờ “Quỷ vương” khang trang ở đầu đường, hương khói thành khẩn lắm.

    Mấy chị em tôi có bốn căn nhà kề bên nhau ở mặt tiền đường, ai cũng có chồng có vợ! Điều lạ lùng mà tôi suy nghĩ mãi vẫn không giải thích được: nếu một trong năm người có lục đục, cự cãi lớn tiếng, là “y như rằng” ngày mai ngày mốt sẽ có chuyện tương tự ở nhà đứa khác, xoay vòng chừng nào đủ 5 chị em thì mới thôi...

    Có lần 3 đứa em của tôi có chuyện xích mích cãi nhau với chồng vợ của mình, luân phiên trong vòng bốn, năm ngày rồi êm. Tôi cười, nói với má: “Lần này quỷ vương nó chừa con với Liên ra!”. Ngay đêm đó, 12 giờ đêm, Liên (nhỏ em kế), vì một chuyện hiểu lầm mà điện lên tôi, hai chị em cãi nhau đến khóc mùi... Thế là đủ bộ 5 chị em trong nhà!

    Trở lại chuyện ông Chúa Quỷ! Ông bảo tôi: ‘Con trai của cô Hai làm trùm ở khu này!”. Hỏi: ‘Nó quậy phá dữ lắm sao?”. Đáp: “Không! Là trùm phân phối lộc thực”.

    Tôi gọi vong cháu về, cháu nói: “Con thấy âm hồn nhiều người đói quá nên ngày nào ăn cơm cũng đem sớt cho họ ăn!”. Nghe xót lòng chưa! Âm hồn còn biết thương xót nhau, chúng ta người dương thế bạc tiền, lộc thực tự làm ra được, ngoảnh mặt sao đành?

    Từ đó, mỗi tháng tôi phúng thí cho âm vong một lần, lại xin cho Ba tôi và con trai làm chính chủ phân phối lộc thực.

    Khi cúng, tôi mua những thứ lễ làm no bụng như khoai củ, bánh chưng bánh tét, bánh mì, bánh đa. và giấy tiền vàng bạc hoặc có thêm quần áo cô hồn!

    Ngày trước, Mẹ Quán Âm cấm không cho tôi chiêu đãi cô hồn và đốt giấy tiền vàng bạc. Mẹ nói: “Âm hồn

    ngạ quỷ m ắc tội bị đày không được ăn, không được mặc. Con cho họ ăn mặc là phạm luật! Con xin thì Trên phải cho, nhưng làm sai bị đòn ráng mà chịu nha!”.

    Về sau, từ khi Mẹ Diêu Trì về nắm tay tôi độ thế, Mẹ cho phép tôi cúng chiêu đãi âm hồn mỗi tháng một lần.

    Mẹ dạy: “Mình ăn gì cho vong hồn ăn đó, cúng xong đem vào ăn hết, chẳng bỏ thứ gì, chỉ có giấy tiền là đốt đi thôi!”.

    Khi phúng thí âm vong, tôi đưa hết những phần đã bắt nhốt trong KKT qua các đợt hành xử ra ngoài, cho lãnh lộc thực đầy đủ rồi trả tự do cho họ đi. Có điều tôi ràng buột họ bằng cách điểm “ấn Phật” hình “Chữ Vạn” vào giữa trán, và án lệnh: “Từ nay trở đi mỗi tháng tôi chiêu đãi âm vong một lần, những vong có hình chữ Vạn trên trán được phép trở về nhận lộc thực! Có điều phải biết làm lành lánh dữ, mỗi tối trở lại nhà tôi để nghe Kinh, hoặc tìm đến Chùa chiền. Nếu ai còn quấy phá hoặc làm điều ác, ấn Phật trên trán sẽ làm cho đau đớn, những thứ lộc thực này cầm vào tay sẽ hóa thành đất sét, nghe chưa!”.

    Với âm phần, điều ta nói giống như một thỏa thuận bất biến! Từ ấy đến nay tôi chưa thấy phần âm nào quậy phá (những phần có án chữ Vạn).

    Tôi nghiên cứu cách dụng phép “Mông Sơn thí thực” của nhà Phật - Biến hóa cho của một hóa ra gấp mười, trăm, ngàn lần để tất cả âm vong đều có đủ ăn, đủ mặc!

    Kết quả những điều mà thể Vía của tôi nhìn thấy làm cho tôi thực sự ngạc nhiên lẫn thích thú!

    Khi dụng phép, tôi cho nhấc và trải bàn ăn hiện có ra thành rất nhiều bàn tương tự, tất cả các vong hồn hiện di ện đều được có phần.

    Lúc đầu âm vong tụ về chỉ độ vài mươi người, về sau mỗi lúc một đông hơn, đến một, hai ngàn là chuyện thường! Nhìn thấy phải rùng mình kinh sợ, hồn xiêu phách lạc nhiều đến thế này sao? Hồn nào lang thang hàng xứ đói rách, lạnh lùng, hồn nào đau đớn tật nguyền thảm thương kiếp kiếp? Hồn mất thân người vương mang nghiệp ngạ quỷ yêu tinh, đời đời phẫn hận. Hồn điên dại khóc cười lê lết đường quang. Trong đó biết chừng đâu còn có thân bằng quyến thuộc của ta nhiều đời nhiều kiếp, có vợ chồng con cái gắn bó yêu thương.

    Ta nghĩ hoài, nghĩ mãi, làm thế nào cho âm hồn bớt khổ nạn, tai ương? Cứu người cũng là cứu ta đó vậy! Kiếp này, giờ này ta bố thí thi ân, ngày sau, kiếp sau ta cùng con cháu người thân được cứu! Như lời Mẹ dạy: “Gieo một trái cà trái ớt ra cây trổ đến hàng chục, hàng trăm - Sao chẳng cố công gieo giống ngọt lành để mai sau con cháu cùng hưởng!”

    Có lần, đang lúc tôi chiêu đãi âm hồn, chưa kịp phân phối lộc thực thì ngoài trời đổ cơn mưa lớn. Đang xót xa cho những âm vong phải đứng dầm mưa ngoài kia, cô Ti ến (học viên Nhân điện) bảo: ‘Dùng phép lấy bạt che lên, trong nhà mình có tấm bạt đó!”. Ngay lập tức, Vía tôi thấy mình lấy bạt ra che ngang đầu, hai tay làm dấu từ trên đầu che dài ra khoảng sân và con đường phía trước nhà. Trụ thần nhìn, tôi thấy tấm bạt lớn và dài che kín trên đầu các âm vong. Mà lạ - Bạt chỉ che lúp xúp trên sát đầu, mọi người đều đứng lom khom trông đến tội - Suy nghĩ lại, tôi biết: khi tôi làm phép che bạt, tay tôi ra dấu kéo dài ra từ chỏm tóc trên đầu mình, nên bạt che ra không thể cao hơn!

    Tôi lại nảy ra sáng kiến, lấy chiếc ghế nhựa màu xanh, dụng phép phân cho mỗi người một chiếc... Trụ thần nhìn lại thấy tất cả đoàn người thảy đều có ghế ngồi trật

    tự cả rồi, ngoan ngoãn và im lặng như đang tham dự một cuộc họp quan trọng nào đó!

    Hôm ấy, được thể, tôi tiến xa hơn, dụng những phép xưa nay chưa từng sử dụng: sau khi phân phối lộc thực, tôi nói: “mọi người đưa lộc thực lên cho tôi xem nào!”. và tôi ngẩn người khi thấy tất cả âm vong đều đùm túm thức ăn vào trong vạt áo - Thương quá, tôi lấy ra phân cho mỗi người một chiếc bọc xốp màu xanh, ngay lập tức mỗi người đều có một bọc xốp màu xanh trên tay.

    Tôi lại hỏi: “Đã đủ cả chưa? Còn ai chưa có phần, đưa tay lên cho tôi xem nào!”. Tự dưng ở tít đàng xa, từ hai góc rừng người có cánh tay đưa lên cao! Tôi nhìn kỹ, thấy hai người mặc giáp trụ màu vàng nghệ, tôi hỏi: “Ngài là ai?”. Đáp: “Chư Thiên”. Hỏi: ‘Ngài đứng làm chi đó?”.

    Lại đáp: “Bảo an!”

    Tôi cung tay xá một cái cảm ơn hai vị Chư Thiên, thì ra Ơn Trên đã âm thầm cho binh tướng ứng trợ chúng tôi!

    Hèn nào hôm trước Sư Hướng đến nhà, có bảo tôi: “Cô Lan bây giờ giỏi quá! Có hai Chư Thiên, có Nhị Thần Hộ Pháp hỗ trợ, lại có nhiều Thiên binh nữa!”.

    Chuyện này Mẹ Diêu Trì đã về báo cho tôi: ‘Ngọc Đế cho điều 500 Thiên binh về hỗ trợ cho con. Dạo này tà phép mạnh, tà cao lui tới nhiều, ta e con không đủ sức chống đỡ!”. Tôi hỏi Mẹ: “Con biết sử dụng họ như thế nào đâu!”. Mẹ trả lời: “Từ từ nghiên cứu đi! Họ di ệu dụng lắm đó!”. Xưa nay, Ơn Trên chẳng bao giờ dạy tôi chính thức điều gì, để cho tôi tự chiêm nghiệm lấy mà thôi, tìm được cách thì sử dụng được phép, không thì phép chẳng thiêng, vậy thôi!

    Tôi hướng dẫn cho các chị em Nhân điện dụng phép “Mông Sơn thí thực”, cũng chẳng dễ dàng gì, lần đầu không ai làm được, cỗ cúng còn nguyên, không biến hóa thêm gì! Cả hình chữ “Vạn” án cũng không vào được, sau này tôi xin Điển về hỏi, Điển Trên cho biết vì các chị em không có Phật ấn nên phép không thiêng!

    Phần giải bùa thì chị em ai cũng làm được. Đương nhiên phải có tôi theo dõi, hỗ trợ và kiểm tra lại kết quả.

    Tuy nhiên ai cũng giỏi hơn tôi vì không phải “chịu đòn thế”!

    Mẹ bảo tôi là gốc nhà Phật, giải bùa là làm sai căn pháp, bị đòn hoài cũng đúng thôi! Nhưng nếu người bệnh bị vướng bùa, không giải bùa ra thì điện truyền vào chẳng những không có tác dụng, bệnh lại còn nặng hơn vì các thế lực từ bên trong phản công lại!

    Người đạo Phật vốn nhu hòa, tôi không muốn động chạm tới ai, “kính nhi viễn chi” là thượng sách! Ngặt nỗi lòng muốn cứu người phải tiễn binh gia về với Thầy Tổ, tôi vẫn cung kỉnh bày cho người bệnh về nhà mua ít lộc thực, tiền bạc và gạo để cung cấp cho các chư binh làm lộ phí tìm về Tổ Đường của mình, không hiếp đáp, bắt giữ giam cầm ai. Chắc các chư vị Thầy Tổ cũng vui lòng mà thứ lỗi cho tôi! Về sau, qua nhiều lần cố gắng, trong chị em chỉ có chị Thục, chị NT, cô Tiến và Lan sử dụng được phép “Mông Sơn thí thực” - phép án Phật ấn, chỉ có cô Tiến là làm được!

    Tôi vẫn dự định là sẽ cố gắng để cho các anh chị em trong nhóm chúng tôi tất cả đều sử dụng được hai phép án kể trên. Trước tiên là có đủ lộc thực cho âm phần được no đủ, sau là khống chế họ không làm điều ác, vừa cho vừa khuyến thì họ mới nghe! Nếu ai ai cũng biết làm điều thiện và lánh xa điều ác, thế giới này sẽ đẹp hơn nhiều.

    Và nếu các vị Thầy Bùa, Thầy Pháp biết cân phân sau trước, thận trọng mỗi khi cho đi một lá phép, ắt nhân thế bớt đi khổ nạn, tai ương!

    Các Đấng có nhiều quyền phép xuống trần cốt để cứu nhân độ thế, đâu muốn gieo Nghiệp ác! Chỉ vì tùy tiện chẳng thận trọng khi lựa chọn môn sinh, trao phép thuật dày công tu luyện vào tay kẻ dữ, để mình cũng bị vạ lây.

    Đến khi tội ác trùng trùng luật Trên xử chẳng dung tha, trò tiêu hồn lạc phách thầy cũng dạ xót lòng đau. Người xưa bảo: “Cây kim sợi chỉ chẳng qua được lưới trời” đó thôi!

    CHUYỆN ÂM BINH

    Để cho mạch chuyện được liên tục, tôi chuyển sang kể cho các bạn nghe về “Âm pháp”: bùa chú, thư ếm. là mảng đề tài mà tôi “ớn” nhất!

    Ở đây có một hệ thống “chỉ huy hàng dọc” từ Thần Tướng chủ đạo, đến Tổ Thầy, các binh gia hoặc âm binh. Động tới họ là động đến nhiều thế lực liên đới.

    Về âm pháp, hàng cao nhất ta gọi là “Đạo phù”, lệnh chỉ của pháp môn! Thứ đến là “Ản phù”, còn gọi là Sớ Tổ, các vị thầy tầm sư học đạo xong, lãnh sớ Tổ về nhà để thờ (cũng tương tự như Linh vị). Từ đó các chư binh về theo... Mỗi lá bùa đi kèm theo 12 binh và 1 Tướ ng, Tướ ng là Thần hoặc Chúa Quỷ! Tùy theo mức độ quan trọng của công vi ệc mà lá bùa có thể có hai đội binh (Tổng cộng 24 binh) và 1 Tướng, hoặc “xoàng xoàng” chỉ có 6 binh!

    Ta gọi lá phép là “Lệnh phù” hay ‘Lệnh bài”, mỗi lá phép đi cùng 1 lệnh bài! Tất cả những điều này tôi “trộm lệnh Mẹ” để cầu kiến, phỏng vấn các vị Thần điều binh khiển tướng. Họ đã cho tôi biết như vậy!

    Đến đây, tôi xin phép đi vào cụ thể từng trường hợp.

    Có một cô người Bắc, tuổi độ hai lăm, nhà ở chợ Hiệp Thành. Cô có một con gái còn bé! Nhờ người quen dẫn lên nhà tôi hỏi Điển xem: có phải chồng mình có nhân tình ở ngoài hay không! Mẹ Diêu Trì về, nhìn mặt cô ấy một lát, Mẹ nói: “Người ta có bầu gần sanh đẻ rồi, còn hỏi có hay không gì!”. Cô gái lúc ấy mới ôm mặt khóc và khai

    thực mọi chuyện, Mẹ lại bảo: “Chồng con nó bị bùa yêu chứ không phải sanh tâm phản bội con đâu!”. Cô ấy kể chuyện chồng mình về lấy quần áo mang đi, bảo cô: “Anh bị bùa yêu! Em thươ ng anh thì đi tìm thầy gỡ bùa cho anh, không anh chết mất! Giờ cô ấy sắp có con rồi, em để cho anh đi nuôi cổ sanh đẻ Mẹ tròn con vuông rồi anh về!”.

    Dạo ấy, tôi vẫn chưa biết đến bùa chú và chưa dám giải bùa cho ai, đành lắc đầu chịu thua, dù lòng xót xa lắm!

    Sang ngày hôm sau, cô gái ấy lại lên, đem túi trái cây cúng Mẹ. Vừ a nhìn thấy cô, tôi đã buột miệng: “Rồi! Bị bùa rồi! Từ tối qua tới giờ chồng con có về, đưa cho con cái gì đó phải không?”. Cô ấy nói: “Anh ấy mang về năm trăm ngàn, bảo là tiền của cô kia đưa, bảo con cầm lấy mà lo cho con mình, còn ảnh thì nuôi đẻ cho cổ, con mang cả lên cho cô xem, mười tờ năm mươi ngàn đây!”.

    Lúc đó, trong nhà tôi còn 3 người nữa đang chờ chữa bệnh. Tôi vừa đặt tay lên xấp tiền xin Điển Trên về nghiệm thì bị bùa đánh tức thì! Vía tôi thấy mình ngã xuống đứng lên 3 lần, đành thua - Buông xấp tiền ra. cả người choáng váng, tối tăm mặt mày như trúng phải gió độc, đứng không vững, phải ngồi bệch ngay xuống đất!

    Lần theo bờ tường mới đi được vào buồng trong, tôi ngồi xếp bằng xin Ơn Trên về cứu, xin Điển Thầy Tổ về trợ 5 phút sau mới tỉnh! Trở ra phòng khách, đang băn kho ăn chưa biết nên xử trí ra sao thì nghe văng vẳng bên tai: “Nhị Thần Hộ pháp trợ, cô Hai giải bùa đi!”. Tôi đặt tay lên đỉnh đầu cô gái ấy giải bùa xong, Mẹ Quán Âm về, người cầm cây bút Bic màu xanh làm dấu nho nhỏ lên góc của 10 tờ tiền, xong bảo: “Con đem về dùng và để ý đi!

    Thể nào cũng có tờ trở lộn lại nhà, vào tay con cho coi!”.

    Mẹ dạy cô gái ấy mua đồ cúng tiễn binh. Lại bảo: “Ta cứu con một lần này thôi! Chồng con có duyên nghiệp với cô kia, tách ra không được đâu!”.

    Thật tội cho cô ấy, nghe thế thì khóc mà đi về, sau không thấy trở lại nữa! Phần tôi, khi chữa bệnh cho 3 người đang ngồi đợi đó, ai cũng giật mình bảo: “Bàn tay chị lạnh ngắt như nhúng vào nước đá!”.

    Đó là lần đầu tiên tôi biết đến sự đáng sợ của bùa.

    Bùa chú có nhiều dạng, nhiều cấp độ mạnh yếu khác nhau, mức độ tác hại cũng vô chừng - Loại nhẹ nhất là bùa của Tổ Tông nghiệp nhà, do âm binh thường, những âm vong xiêu lạc, giống như một đội quân thiếu chính quy.

    Cao hơn nữa là đội quân được đào luyện mặc cùng một sắc phục, quân binh của những vị Thầy chuyên nghi ệp, thuộc dạng quân “thiện chiến”.

    Loại “hùng hùng hổ hổ”, chưa kịp nhìn thấy người đã nghe lạnh dọc sống lưng từng luồng là binh của Chúa Quỷ, cả đội binh toàn ngạ quỷ, hai mắt đỏ ngầu sắc máu!

    Ngoài ra, còn có binh của Quan Thánh Đế quân mặc sắc phục toàn đen.

    Bùa của người dân tộc miền Thượng cũng rất đáng sợ, vì họ sử dụng ma xó, ma rừng. Loại bùa này không có quân số cố định: có lúc hai, ba binh; khi bốn, năm; hoặc dùng toàn ma loài vật như: chó sói, chồn, rắn rít, con vắt, khỉ dã nhân, con vượn, báo...

    Loại bùa Miên (còn gọi là cà tha) thường ít khi sử dụng binh, gọi đây là phép thư, phép ếm đối thì đúng hơn! Phép này rất chính xác, dữ và độc!

    Có lần tôi thấy bùa Kampuchia của Pôn Pốt, là binh chính quy, họ mặc giáp trụ màu vàng, y như quân lính Hoàng gia, mang cờ xí và trang bị vũ khí gươm đao chứ không dùng súng.

    Loại bùa Miên, những ông thầy gỡ bùa ai cũng sợ: lơ mơ giải ra không xong là bị nôn ra máu chứ chẳng chơi!

    Loại khó giải nữa là bùa dân tộc, vì nó đa dạng và khó tiên đoán, thầy giải bùa hay bị lầm, đi đến chỗ giải không được hoặc tác dụng không đủ.

    Đa số các loại binh pháp đều hành theo Lệnh phù, những việc không liên quan họ không can dự! Tuy nhiên, cho dù có là những âm hồn hay âm căn đi nữa, kẻ dữ cũng biết nghe lời đạo lý! Tôi thường ít khi phải sử dụng “biện pháp mạnh”, chỉ lựa lời phân giải, khuyên can, các Thần Tướng điều binh sẽ tự nguyện cho tôi xóa Lệnh phù, sau đó tùy theo nguyện vọng của họ, tôi cho “giải giáp binh gia” trả họ về đời sống tự do hoặc đưa vào Chùa tu, hoặc trả về cho Thầy Tổ.

    Có lần, tôi “uốn lưỡi” nói lý lẻ một hồi, vị Th ần của một dòng tộc danh tiếng nọ chịu “cải tà quy chánh”, xin tôi bằng lòng thu nhận ông cùng 500 binh của mình theo về làm việc cứu nhân độ thế!

    Tôi từ chối, nếu không thì đến nay tôi đã làm một bà Thầy Pháp cao tay ấn rồi.

    Có một chị làm nghề mua bán gạo, nhà ở chợ Gò Vấp, chồng là Giáo sư! Hai người có cô con gái lớn 23 tuổi đang học Đại học năm thứ 3 tại Mỹ thì phát bệnh tâm thần. Gia đình đưa về Vi ệt Nam chạy chữ a rất nhiều nơi không khỏi, quay sang tin tưởng Thần quyền! Được “xác Đồng” ở đâu đó phán bảo, người Mẹ về lập điện thờ Chúa Sứ Nguyên Nhung (bà Chúa Sứ) trên tầng lầu 1 nhà mình.

    Hôm ấy, tôi và Lan (học viên Nhân điện) xuống nhà chị. Lên lầu thấy ngay một điện thờ nho nhỏ, trong ấy thờ Bà Chúa Sứ lộng lẫy, oai vệ với tràng phang, bảo cái đủ đầy. chung quanh có thờ nhiều vị Phật và Cửu Huyền, tất cả đều đẹp đẽ và sang trọng, chuông mõ (loại chuông đại, mõ đại). Bên trong chuông, tôi tìm thấy vài tờ giấy ghi tên tuổi, lời cầu xin của ai đó, chị cho biết điện thờ này thiêng lắm, nhiều người tới xin đều được!

    Tuy nhiên, tôi phát hiện ra trong căn nhà của chị đầy binh, lại là binh của các chi phái khác nhau. Chị nói: “Hồi cháu bệnh, vợ chồng tôi cầu vái tứ phương, thỉnh bùa về để tr ị bệnh cho cháu đó. Khi phần nhập về, cháu xưng là đệ tử ruột của Phật Thích Ca, giảng đạo nói pháp giỏi lắm!”. Xác xưng đệ tử Phật, vậy mà Đồng bảo thờ Chúa Sứ Nguyên Nhung (bên Địa Tiên) cũng nghe! Bệnh của con chạy chữa hoài không hết, lại mang nợ năm mươi triệu vô phương chi trả, thực tội cho người Mẹ cả tin! Cô con gái ở trong phòng đóng kín cửa, cười rú lên từng tràng, ai nghe thấy cũng phải rùng mình. Lan nhảy lên tấm thảm chùi chân đứng, nói: “Có gì ghê quá chị ơi! Nó chạy vô chân em rần rần như có điện vậy!”. Tôi nói: “Binh đó! Toàn là “thứ dữ” không hà!”.

    Tôi thắp hương, xin Điển Địa Tiên về hỏi và được báo: trong điện thờ này không có Điển của chúa Sứ Nguyên Nhung, cũng không có phần Điển nào của Địa Mẫu ngự về. Tôi xin: “Mẹ có cho phép con tra án hay không?”. Điển báo: “Cho phép!”. Cẩn trọng, tôi hỏi lại: “Xin cho con biết Điển nào chuẩn án!”. Lời văng vẳng bên tai: ‘Lê Sơn Thánh Mẫu!”.

    Tôi xá một xá tạ ơn Mẹ Lê Sơn, xong hướng về tượng Chúa Sứ khấn: “Nếu ở đây có ngự Điển của Bà Chúa Sứ, xin cho phép tôi quỳ lạy 3 lạy đảnh lễ.”. Vừa khuỵu chân xuống định quỳ, tự dưng có một lực nào đó dựng đứng hai chân tôi lên, không cho quỳ, cả 3 lần đều như thế!

    Tôi chấp tay khấn: “Nếu thế thì xin cho con xốc áo mão cân đai lên xem cái gì ở trong ấy!”. Tôi đưa hay tay về trước, phóng điện vào trong áo choàng của Nguyên Nhung, thấy nhảy ra tức thì một ông già hom hem, tuổi độ 70, mặc áo thụng màu đen, ngồi co ở bên cửa!

    Người ấy xư ng tên là Trình Tính, 70 tuổi, nguyên là Tướng Trời! Người khai mình có 2300 binh, tôi ngẩn ngơ:

    “Chúa Sứ Nguyên Nhung có 2500 binh, ông làm chức gì mà có đến 2300 binh?”. Hỏi Lệnh Ân, ông ta gục đầu không trình ra được... Thế là tôi cho thiên binh trói nghiến nhốt vào KTT!

    Vừa nghe tôi tả lại, chị hỏi dồn: ‘Có phải ông về ở với con gái tôi hay không?”. Ông ta xác nhận là đúng như vậy, người Mẹ kêu trời: “Hèn nào nó cứ hay nói: “lão Tổ của ta nói như vậy đó!”.

    Quay lại, tôi bước tới cửa phòng đóng kín, nhẩn nha nói: “Nghe đồn ở đây có điện thờ đẹp đẽ mà linh thiêng lắm, tôi tới thăm mà không thấy cô chủ ở đâu để chào một tiếng!”. Tiếng cười nín bặt, cô bé lần tới sát cửa nghe ngóng, lát sau hé cửa bước ra. Tôi mời ngồi, phỏng vấn: “Nghe nói con học giỏi lắm ở bên Mỹ, sau bị bệnh mới trở về Vi ệt Nam phải không? Gia đình, ba Mẹ lo lắng cho con biết bao .23 tuổi, con trả hiếu được gì cho cha Mẹ chưa sao để Mẹ thương con lo đến bạc tóc vầy nè!”.

    Cô bé trả lời “tỉnh queo”, giọng cứng cỏi: ‘Dạ chưa! Con là đứa bất hiếu mà!”. Xong, liếc sang người Mẹ ngồi kề bên, cô bé đổi giọng khiển trách: “Mẹ nói phải không? Có phải Mẹ nói không?”. Người Mẹ run bắn, trả lời lắp bắp không thành câu: “Không phải Mẹ. Mẹ có nói gì đâu!”. Cô bé quay sang tôi: ‘Con xin lỗi! Con mệt, con đi đây!”.

    Đi tới cửa buồng, cô bé quay lại nói: “Mẹ hứa đưa con đi chơi, nhớ không! Năm giờ rồi!”. Một cách đuổi khách rất lịch sự, ai bảo cô bé ấy tâm thần?!

    Chuyến ấy, chị em tôi thua! Giăng một mẻ lưới, bắt được một con cá to, nhưng vẫn còn tự nguồn cội tâm linh những mắt gút của cuộn chỉ rối chưa gỡ được... Nhân duyên chưa đủ hay nghiệp quả còn dầy? Có thể là cả hai, trong những trường hợp nặng nề tương tự, nếu gia chủ kiên trì trở lại nhà tôi thêm vài lần nữa. Thể nào Ơn Trên cũng xót lòng mà cứu! Nhưng nếu án này mà giải tới cùng, tôi bị “đòn trả” cũng mệt đừ!

    Đêm ấy, tôi xin Mẹ Diêu Trì về bàn giao viên tướng Trình Tính, xin cho trường năng lượng đưa 2300 binh giao

    về trên. Lạ và rất đẹp, tôi thấy có nhiều đợt mây màu hồng bốc từ dưới thấp lên cao rồi dần tan mất, tôi biết đó là năng lượng chuyển các chư binh về trên.

    Trong nhà ấy còn nhiều binh pháp, âm binh mà quậy thì đất bằng cũng còn dậy sóng nữa là. Phần người Mẹ, một mực cứ tin rằng có Chúa Sứ Nguyên Nhung trong điện thờ của mình. Tôi và cô Lan hỏi Điển bảo không, nhưng bà chủ điện hỏi Điển vẫn bảo rằng có. Tôi lại hỏi: “Cho tôi biết Điển nào vừa ứng báo?”. Trả lời: “Điển Cửu Huyền!”.

    Vì không phải là tín đồ Đạo Mẫu, tôi chẳng biết thực hư ra làm sao, tối về hỏi lại Mẹ Diêu Trì, Mẹ bảo: “Không được thờ Bà Chúa Sứ ở nhà riêng!”

    Con người vốn đam mê quyền lực, sai đường lạc nẽo không hay, khi xác trần chưa có Lệnh Ân thì Điển Trên không về, phần tà nào đó nhảy vào chấp lệnh, ra oai để nhận lộc lễ, chúng ta thì chỉ biết nhắm mắt tin bừa, thỉnh một “Ông Tà” về đặt lên ngôi cao, diệu võ dương oai thay trời hành xử! Công hay tội, phúc hay là họa. điều ấy người trần thế mấy ai được biết!

    Nhớ lại chuyện cô Hương (học viên Nhân điện), cô Hương cũng bị Điển Tổ nghiệp án vào làm cho ứng báo sai lệch theo ý họ. Đến nỗi rước Bà Sư Phụ yêu tinh vào xác, chịu hoạn nạn dồn dập gần hai năm trời.

    Có một vị nguyên là Lương y Quốc gia, có hai bằng bác sĩ Đông và Tây y, là Thầy dạy bác sĩ, có chức danh lớn! Trước ông ở Mỹ, nay trở về định cư tại Việt Nam, có một phương thuốc gia truyền viên thành viên nhỏ xíu mà ông bảo rằng trị được bách bệnh. (tôi xin phép được dấu danh tính!)

    Nhìn bề ngoài của ông, ta có ngay lòng tin của một vị Lương y hiền lành, đức độ, vị tha và hòa ái! Tôi quý ông ngay lần đầu tiên gặp mặt, nhìn ra phần Linh căn của ông là một vị Bồ Tát mắc đọa. Tôi giới thiệu vài người đến ông để khám bệnh, bốc thuốc!

    Một hôm, tôi đưa Mẹ con chị bạn đến nhà ông mua thuốc về uống, được hai ngày thì phát lên dị ứng đầy người! Điện thoại lên nhờ tôi chữa. Khi đưa điện vào đứa con gái, tôi nghe ứng báo có một cái gì đó rất lạ, chuyển năng lượng sang trục tà, từ huyệt Bách Hội (Luân xa 7) đẩy xuống hai bàn chân, tôi rút ra cơ man nào là rắn, con nào con nấy chỉ nhỏ bằng ngón tay út, dài độ chừng hai gang tay, bầy rắn uốn éo phóng ra từ hai bàn chân, chạy mất!

    Sang người Mẹ, tôi cũng lôi được một mớ rắn, con nào con nấy lờ đờ cứ như “tắc kè say thuốc lào!”. Tôi đưa bàn tay lùa tới, chúng uể oải uốn éo một cách lười nhác tránh sang bên. Thì ra với những người có năng lượng bùa phép án vào bị liệt, thuốc uống vào không có tác dụng hoặc có ít!

    Đêm trước, tôi nằm mơ thấy một việc lạ: thấy tôi đưa người tới nhờ bác sĩ điều trị, vui chân bước ra nhà sau, tôi nhìn thấy có nhiều hộc gỗ, trong đó chứa đầy lươn, lịch, cá chình, lại có vài con rắn độc bò lơ ngơ. Những con cá, lươn bị chặt mất nửa đuôi, còn lại những cái đầu đầy máu còn sống, trong khoang gỗ nhầy nhụa những máu và nhầy nhớt trông rất kinh khủng!

    Tôi hỏi: “Anh làm gì với những con này vậy?”. Ông anh nói: “Làm thuốc!”. Đang bức xúc, tôi buột miệng: “Làm con nào ra con ấy đi, để giở sống giở chết vầy trông tội quá!”. Ông ấy liếc tôi một cái, sợ quá tôi bước mau lên nhà trên, rồi giật mình tỉnh giấc.

    Những giấc mơ ứng báo bao giờ cũng chính xác! Ngay tối hôm sau tôi khám phá ra trong thuốc ấy đầy binh. rắn!

    Hai anh chị ấy cũng quý tôi, hay tìm lên nhà chơi, chị than: “Anh hay tụng Kinh Dược Sư và Chú Đại Bi vào thuốc để tr ợ thêm tác dụng, nhưng lại không kiêng sát sinh, các loại động vật mua về phải còn sống thì anh mới ăn! ”. Hèn nào mà tôi mơ thấy những hộc gỗ và nhữ ng con vật đầy máu.

    Tôi lựa lời khuyên anh: “Theo Kinh giảng, người muốn tụng Chú linh nghiệm phải ăn chay và tắm gội sạch sẽ, liên tục trong 7 ngày! Anh làm thế Chú không thiêng!”

    Lần đầu tiên lên nhà tôi, anh không nhận có bùa trong thuốc. Lần thứ hai, anh bảo: ‘Lúc anh 13 tuổi, cha có nhờ 3 vị thầy đến nhà để dạy các phép. Anh có lãnh Sớ Tổ đem về để trên bàn thờ nhưng không hành phép, dụng binh!”.

    Tôi nghiệm ra: có lẽ vì anh còn sát sinh nên tụng Chú không linh ứng! Do vậy các vị Thần Tổ trên bàn thờ mới chuyển binh pháp vào hỗ trợ, từ đó trong thuốc có binh.

    Chị N.T cùng con gái, cậu Phòng, cô Phi và Mẹ uống thuốc vào đều có tác dụng phụ nặng nề: ba người dị ứng đầy người, cậu Phòng đang đi chơi biển Phan Thiết điện về cho tôi, tôi chữa hai lần mới hết sốt và rét, cô Phi vì đang bệnh nặng nên chữa đến bốn lần (hai ngày mới khỏi). Mẹ Phi bị dị ứng cả người, chữa 3 lần vẫn chưa dứt hẳn, tôi phải giải binh ra mới hết.

    Anh xem mạch bốc thuốc lấy tiền. tác dụng phụ thì tôi lảnh! về sau, anh có báo cho tôi biết: “Suy nghĩ lại thấy em nói đúng nên anh không sát sinh nữa và đợi ngày chay đem thuốc ra tụng Chú lại hết!”.

    Sau, anh nói với cô Phi: “Cô Lan có hỏi thì con nói Bác không dùng bùa chú nữa, nhưng thuốc của riêng con Bác vẫn phải cho bùa vào, vì bệnh của con là bệnh âm!”. Cô Phi hỏi tôi: “Chị có lên lầu nhà Bác ấy không? Bác để ở bàn thờ dưới đất những cục đá tròn tròn, cu Thái (con cô Phi) sờ vào, bác ấy rầy: “Đừng cho cháu phá, binh không ở trong đó!”.

    Khi hai anh chị lên chơi nhà lần đầu, tôi ứng thấy có nhi ều vong hồn chiến sĩ Thủy quân lục chiến đứng trước nhà, dọc theo bờ kênh, và thấy trong nhà đầy binh pháp.

    Chị kể lại một giấc mơ cách đó hai hôm: mơ thấy có mấy người mặc đồ lính Thủy quân lục chiến đi từ ngoài cửa vô nhà! Chị la lên: “Mấy người làm gì vô nhà tôi?”. Họ nói:

    “Vô chút xíu ra liền!”. Có thế, rồi chị thức dậy.

    Cô Phi Bị bướu độc trong bắp chân, uống thuốc vào hành đủ chứng, bác sĩ cũng thua, và tôi cũng phải vất vả lắm mới chận được tác dụng phụ ấy. Ông bà xưa bảo ‘Phước chủ may thầy” quả đúng - Thầy giỏi mà bệnh nhân hết số cũng thua, dẫu “Hoa Đà tái thế” cũng làm sao chuyển được mệnh trời!

    Một bác sĩ định cư tại Mỹ, mỗi lần về Việt Nam thuyết trình trước hàng ngàn bác sĩ của các bệnh viện. Có phương thuốc gia truyền quý trị được cả bệnh ung thư, với phương châm: “Không sử dụng hóa chất trị liệu, không mổ xẻ mà hết bệnh!”. Cuối cùng cũng lắc đầu chào thua 3 cục bướu nhỏ chỉ bằng ngón tay.

    Cô Phi Bệnh vẫn y nguyên, uống thuốc vào phải kiêng ăn nhiều thứ, lại bị hành đủ chứng, người càng ngày càng gầy rộc đi, đến lúc bị choáng ngất xỉu vài lần khi đang lên lớp giảng bài đành phải ngưng uống thuốc!

    Ngẫm lại mới thấy định nghiệp thực là đáng sợ: chết không chết được mà sống cũng sống không yên!

    Một bác sĩ danh tiếng vẫn còn phải sử dụng bùa phép để trợ cho y khoa, trách sao mọi người chẳng chuộng! Quyền phép của các Đấng và Âm binh rẻ đến nỗi chỉ cần ly cà phê, vài điếu thuốc lá thơm, một tô phở đáng giá chừng hai chục ngàn đồng là có thể có một lá phép điều binh. Thực uổng phí cho bao công lao dày công luyện phép!

    Nếu quyền phép ấy vào tay những vị Thầy đạo đức và có lương tâm, sẽ trở thành bàn tay cứu sinh. Biết bao nhiêu người khổ nạn được xoa dịu, ủi an. Cuộc đời này chắc sẽ đẹp hơn nhiều. Mong lắm thay!

    Tôi xin phép khuyên những người có sử dụng bùa chú như sau: thỉnh thoảng nên cúng chiêu đãi binh gia một lần, có no đủ, họ mới tận lực giúp ta!

    Sau một thời gian phù hợp (tùy theo công việc mà ta đã chuộc phép), ta nên cúng “Tống tiễn binh gia”, trả phép, tiễn binh trở lại với thầy Tổ, lễ vật cúng tiễn như sau:

    - 2 bát gạo

    - 1 đĩa thịt luộc xắt lát (hoặc thịt quay)

    - 2 ly nước

    - 5000 đ giấy tiền vàng bạc

    - 5 điếu thuốc (có thêm cà phê càng tốt)

    Tất cả đặt lên mâm cùng với lá bùa, để trên ghế hoặc bàn nhỏ, ngoài cửa chính căn nhà, về phía đường đi (nên nhớ không để trong nhà, binh nhận lộc xong sẽ lẩn lút ở lại. Không để trong khuôn viên cửa nhà, binh sẽ không được phép nhận)

    Khấn: Tôi tên………Nguyên trước tôi có thỉnh 1 lá phép tạicủa thầy! Nay công việc đã xong, tôi xin phép chiêu đãi tiền bạc và lộc thực để tiễn trả các vị Thần chủ và binh gia, về với thầy Tổ của mình. Xin các vị nhận lộc lễ rồi ra đi và cho phép tôi xóa lệnh phép, không một ai còn ở lại trong nhà tôi hết, tôi xin cảm ơn!

    Đốt 3 nén hương, đọc bài khấn xong cắm hương, quay lại đốt lá phép cùng tiền bạc, chờ thêm 10 phút nữa thì ta dọn cỗ cúng. Đồ cúng đem vào ăn cả, không bỏ gì!

    Có nhiều người hoàn cảnh khó khăn, cúng xong vì sợ mà không dám cho con cháu trong nhà ăn, lộc thực đem cho người ngoài, phải tội con trẻ “nhịn thèm”!


    CHUYỆN “ĐÀN DƯỚI”

    ‘Đàn dưới”, nói nôm na là dưới nước hay “thủy cung”! Người trần chết dưới nước âm vong bị bắt giam, không về nhà được - Các Thầy bùa Thầy Pháp đôi lúc cũng chào thua.

    Tuy nhiên, nếu biết cách giao tiếp khéo léo và tế nhị, ta có thể thay đổi tình huống, đưa người chết dưới nước lên bờ ho ặc tiễn phần trên bờ trở về dưới nước... Xin mời các bạn nghe tôi kể chuyện “Đàn dưới”.

    Một cô gái quê Bến Tre, lên Sài Gòn tìm việc làm, xí nghiệp nào cũng lắc đầu, hoặc kiên nhẫn chờ đến lượt thì được báo. đủ người!

    Hơn nửa tháng chạy vạy vẫn chưa có việc làm, ở nhà thuê lại bệnh hoạn liên miên: hay bị làm mệt, chóng mặt xây xẩm, đau nhức ê ẩm khắp người - Đêm ngủ hay giật mình và thường bị lên cơn rét không rõ nguyên nhân.

    Vừa nhìn cô gái ấy, tôi đã thấy khí âm rất nặng trong người: da mặt tái xanh như da người chết, hai mắt trỏm vào có khoen màu sạm lan hết cả vòm mi trên!

    Truy tìm, tôi lôi ra. 3 con “ma nước”: 1 nam, 1 nữ cùng 1 bé trai độ chừng bảy, tám tuổi - Cả ba quần áo tả tơi, người ướt lướt thướt, rét lạnh và run rẩy. Ngỡ là một đôi vợ chồng, tôi hỏi thì họ bảo: ‘Dạ không! Tôi là anh trai. Đây là em gái và con trai của nó, bị chồng bỏ! Anh em chúng tôi chèo ghe bán hàng rong trên sông bị bão lũ dìm chết ngoài sông lớn”. cả 3 âm vong ấy đều rất hiền, quỳ ở bệ cửa nhà tôi mà xin cứu!

    Tôi ra điều kiện: “Sáng mai cô gái này đi xin việc, ba người không cản phá, hỗ trợ cho được việc, cô gái ấy trở lại báo cho tôi biết, tôi sẽ xin Mẹ về cứu cho cả ba!”.

    Tối hôm sau, cô gái ấy trở lại báo với tôi là đã xin được việc! Giữ lời hứa, tôi mua cho ít lộc thực và tiền bạc, xin Mẹ Diêu Trì về cứu vong. Mẹ về, phẩy tay một cái, cả ba âm vong tức thì quần áo khô đàng hoàng, không còn ướt lạnh nữa! Rồi Mẹ đưa vong vô Chùa quy y.

    Chị N.T, bạn tôi, có đứa cháu trai làm nghề thẻ mực trên biển, chết đến nay đã 14 năm! Chị nhờ tôi hỏi xem cháu đã được đi đầu thai chuyển kiếp hay chưa - Gọi vong về, tôi thấy cháu đứng đó người ướt đầm đìa, rét run lập cập. Hai chị em tôi vừa lúc ấy cũng nghe rùng mình ớn lạnh từng đợt y như người đang lên cơn rét!

    Vong P.T.T m ặc áo sơ mi cộc tay sọc ca rô rách tả tơi và một chiếc quần đùi. Chị N.T ra về, hứa ngày mai sẽ mua quần áo lên cúng cho cháu. Tôi cũng vào bếp, Vía thấy cháu không đi, đứng tần ngần bên cửa! Tôi hỏi, vong bảo đang đói và xin tôi cho ăn. Lúc đó, tôi hâm lại thức ăn cũ đã cúng ngày hôm qua không có gì cho cháu. Đành điện cho chị NT bảo gọi cháu về cho ăn.

    Tôi bảo cháu: ‘Lạy Mẹ rồi đi con!”. Vong bước tới, bỗng nhiên ngã lăn quay ra đất, tôi chạy lên nhìn, một cảnh tượng kinh hoàng: hai chân của cháu bị cá rỉa mất cả thịt , lòi xương trắng hếu!

    Tôi hỏi cháu có tiền bạc gì không, thằng nhỏ móc túi, lôi ra một nắm vỏ ốc. Tôi ngạc nhiên tự nghĩ: chắc cõi dưới nước dùng vỏ ốc làm vật trao đổi hàng hóa! Chị N.T nghe kể thì bật khóc, bảo: “Nó đói không có gì ăn phải ăn ốc biển đó!”.

    Ngày hôm sau chị N.T lên, mang theo tiền vàng bạc nén cùng một bộ quần áo giấy vào một chiếc xe Honda (đồ hàng mã) để cúng cho cháu! Hỏi hiện giờ ở đâu, cháu chỉ tay ra ngoài biển. Ngạc nhiên, chị N.T hỏi: “Cha cháu là người chân tu, đã lập đàn ở nơi cháu mất để xin rước vong đàng hoàng, sao cháu vẫn không về được?”.

    Cháu cho biết là vong vẫn còn bị giam giữ dưới nước, chưa được trả về. Ngày giỗ mới được về thăm nhà như ng Cửu Huyền cũng không cho vô, chỉ đứng ở ngoài cửa! Hỏi lý do, vong chỉ bảo là: “không đủ lễ!”

    Chị N.T cúng cho cháu các thứ, khi gọi cho cháu nhận, tôi thấy từ sau lưng P.T.T có nhiều cánh tay đưa ra: già trẻ, lớn bé đủ cả! Có tay đen sạm gân guốc, có tay trắng trẻo sang trọng, có tay bé xíu của con trẻ. vong cháu nói: có cả thảy là 37 vong chết nước bị giam giữ như mình! Cháu lại đưa vào một bé gái nhỏ chừng năm, sáu tuổi, bảo là con nuôi, vong thấy bé gái chết đuối thì thương mà nhận làm con, và xin chúng tôi cứu cả hai cha con luôn thể!

    Tôi nghĩ cách cứu vong P. T. T, trụ thần xin Điển Trên mời vị Th ần biển về cho tiếp xúc. Thần biển bảo: “Vong này không phải do tôi quản lý!”. Tôi lại xin Thần sông, người cũng báo y như vậy! Cầu Mẹ cho Điển điều tra và ứng cứu, chốc lát tôi thấy bước vào nhà mình một vị xưng là Thần cửa sông, nơi giam giữ vong P.T.T!

    Tôi xin cho dâng lễ vật trao đổi để chuộc vong. Thần lắc đầu không chịu nhận lễ. Tôi bèn “uốn lưỡi” xuống giọng năn nỉ: “Cháu tuổi còn trẻ, vô phúc chết oan dưới nước. Cha Mẹ ông bà thương nhớ không nguôi... Dẫu sao thì trần có luật trần, nước có luật nước. Xin ngài rộng lòng cho phép chúng tôi dâng lễ vật hoán đổi, phóng sinh loài thủy tộc để rước vong cháu về trần luận công hài tội cho được nghiêm minh theo luật của người trần thế!”. Tôi nói một thôi một hồi, vị Thần cửa sông vỗ tay: “Thực là đáng bậc Mẫu nghi thiên hạ, lời nói nghe đẹp lòng đẹp dạ biết bao! Được rồi, ta cho trả vong, khỏi cần lộc lễ!”

    Trời đất! Mẫu nghi gì tôi, một người bị đánh đòn như cơm bữa, tôi mà là bậc mẫu nghi, tôi phẩy tay một cái cho “thế gian biến cải vũng nên đồi” hết!...

    Nói cho vui thôi, các bạn nhé! Chúng ta trở lại câu chuyện âm vong của P. T.T, còn nhiều chi tiết ly kỳ, cũng là một bài học kinh nghiệm cho tất cả mọi người trong cái mệnh danh là “cõi giới hữu hình”!

    Tôi năn nỉ vị Thần cửa sông, xin cho rước 37 vong ở cùng cháu P.T.T về trần. Vị ấy không bằng lòng, chỉ trả vong cháu Tiến cùng bé gái sáu tuổi. Đành vậy!...

    Vong P.T.T được về nhà. Chị N.T mua 2 kí cá con đem ra sông phóng sinh để tạ lễ Th ần sông, hai chị em tôi mừng vui chưa hết thì độ chừng một tuần lễ sau, chị N.T lên chơi nhà tôi. Ngồi chuyện vãn chưa được bao lâu, tôi thấy vong cháu Tiến về. Cháu bước vào đứng ở một góc cửa cái, mặt mày “bí xị”, cháu mặc một bộ đồ bizama sọc đứng, giống y chiếc áo giấy chị N.T đốt cho hôm trước!

    127

    Tôi lên tiếng hỏi: “Có chuyện gì mà con buồn thiu vậy? Đã về được nhà rồi hay chưa?”. Đáp: ‘Dạ rồi! Mà ông bà phạt đứng suốt ngày một chỗ, đi đứng nằm ngồi cũng không cho!”. Tôi hỏi: ‘Cái xe và tiền bạc có nhận được không?”. Cháu Tiến chỉ vào góc nhà, tôi thấy chiếc xe bị xích vào chân bàn thờ bằng một sợi xích to bản! Tôi chắp tay hướng về bàn thờ Cửu Huyền xá một xá, xin phép hỏi ai là người khóa xe. Nghe tiếng nói sau lưng: ‘Là tôi ạ! Tôi là Tổ Cậu!”. Hỏi lý do, Tổ Cậu nói: ‘Cháu nó đi mất bao năm, nay trở về không xin phép, tự động vào nhà nên tôi phải phạt. Tôi chỉ làm theo luật Cửu Huyền thôi, cô Hai!”.

    Thì ra, chúng tôi chưa dâng lễ cho Cửu Huyền để xin cho vong cháu được vào nhà! Tôi biết mình làm vậy là chưa đúng luật, hèn nào vong cháu chẳng bị ph ạt!

    Tôi lên tiếng xin lỗi, hứa sẽ dâng lễ tạ tội cùng cửu tộc, xin Tổ Cậu tha cho cháu và đừng khóa xe, để cháu có phương tiện mà đi lại. Tổ cậu đưa tay gãi gãi đầu, lên tiếng ấp úng: “Cô Hai! Tôi cũng muốn có một chiếc xe như vậy!”. Chị N. T lại hứa cho Tổ Cậu một chiếc xe!

    Lần đó, chị N.T phải “hối lộ” Cửu Huyền một con gà luộc, bốn bộ đồ cho ông bà và một chiếc xe cho Tổ Cậu.

    Ai bước vào đường Đạo cũng bị dồn nghiệp trả nghiệp, thời gian dài ngắn tùy theo nghiệp nhiều hay ít. Thực tế chiêm nghiệm từ bản thân tôi cùng các chị em Nhân điện rành rành ra đó - Mỗi người học Nhân điện, từ lúc mở luân xa 100% trở đi là bắt đầu khởi phát tâm linh, bắt đầu dồn nghiệp, trung bình trong vòng hai năm. Sau đó bình ổn trở lại, nghiệp nhẹ dần và tâm linh phát triển ngày càng cao!

    Giai đoạn dồn nghiệp là giai đoạn thử thách chúng ta trên đường đạo, khi chúng ta sử dụng bằng hết ý chí và nghị lực của mình để vượt qua ách nạn, là ta đã tiến thêm một bước trong hành trình tu tập. Giống như trẻ con phải học đến bỏ ăn, bỏ ngủ mới thi đậu và được lên lớp - “Chân cứng đá mềm” là vậy.

    Cô T. (học viên Nhân điện) khi lên lớp sáu, bảy bắt đầu bị dồn nghiệp liên miên! Cửu Huyền bên chồng toàn ngạ quỷ với yêu tinh: Bà cố Tổ hai mắt long lên sòng sọc, mái tóc bạc xoăn tít xỏa ra che gần hết mặt, với tiếng cười vừ a nghe qua đã “lạnh tóc gáy”!

    Cửu Huyền liên tục đưa các âm vong bên ngoài vào nhà để khuấy phá, đánh đòn con cháu! Thất trận này, trận sau tìm kẻ giỏi hơn - Cô T. thì bản thân bị hành đủ chứng, đột ngột và bất thường. bệnh đến rồi đi, chứng nào cũng nặng!

    Cô T. có đứa con gái nhỏ, ngay từ bé đã đối nghịch với cha như nước với lửa: cha thét một tiếng, con ré lên một hồi. Cứ thế mà nâng cao độ lên dần, cho đến khi. ăn

    Hai vong ấy không biết nói tiếng người, tôi phải dùng Điển để giao tiếp, và họ trả lời bằng cách gật, lắc đầu như một Robot vậy!

    Thì ra đó là hai yêu tinh “Đàn dưới”. Tôi xuống giọng năn nỉ, cầu xin họ đừng phá khuấy hai Mẹ con cô T.

    Hai vong ấy bằng lòng. Một tuần lễ bình an, không có gì bất trắc xảy ra! Rồi biến cố lại dồn dập, tôi trụ thần hỏi hai “yêu tinh nước”, họ lắc đầu ra dấu lỗi không phải do mình, chỉ xuống dưới gầm giường.

    Cúi xuống nhìn, tôi thấy hai “con ma nước” nữa, da nó màu đen mun, óng ánh rất đẹp! Chúng nằm dán mình xuống sàn nhà, bốn chi xoãi ra, hai mắt tròn xoe màu xanh lưu ly, ngây thơ và vô tội. Tôi giận quá, cho Điển Trên tống chúng ta khỏi nhà, quay lại hai “yêu tinh nước” đứng ở đầu giường cũng biến đâu mất!

    Con trai lớn của tôi, lúc bệnh nặng sắp chết, người đã nhược sức nhiều! Một hôm cháu nói với tôi: “Cứ nửa đêm là có hai thanh niên vào nằm kế con, nó bắt con phải đưa gối cho nó nằm, kéo mền đắp cho nó, cả người nó lạnh ngắt, làm cho con phát lạnh run, con sợ quá Mẹ ơi!”.

    Tôi xót xa cho con, bệnh nặng lại còn bị âm tà, dùng đòn!

    Có lần cô T. bị hành đau nhừ tử cả người. Tôi trụ Điển Trên điều tra, bắt ra hai tên thanh niên tuổi độ gần hai mươi, chúng ăn mặc như nhau: sơ mi trắng ngắn tay,

    thần nhìn thấy có hai âm vong đứng ở đầu giường, trông thật lạ: họ không giống con người, toàn thân trong suốt như loài sứa biển. Có tứ chi là những chiếc vòi không có giác hút, hai mắt nhỏ tròn xoe như hai viên bi màu hồng ngọc! quần tây màu xanh dương! Giận quá, tôi cho dây xích trói cứng hai tay, hai chân bắt đứng ngoài cửa miếu, hăm một câu: “Tụng xong một thời Kinh ta xử tội chúng mày cho biết!”. Ngồi trong miếu tụng Kinh, tôi vẫn để mắt trông chừng chúng. Một lúc sau nghe tiếng dây xích lạo xạo sau lưng, tôi nhìn lại thấy chúng đang uốn éo tay chân, hiện nguyên hình là. hai con hải cẩu!

    Thấy tội, tôi cho Điển đem trả chúng về với biển. Con trai tôi từ đó không còn thấy hai thanh niên ấy, và cũng thôi không phát rét lúc nửa đêm!

    RÈN LUYỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN TIỀM NĂNG


    Tiềm năng là những khả năng tiềm tàng của mỗi người, hoàn toàn có thể đào luyện và phát triển! Bản thân tôi và nhữ ng việc tôi đã làm được, một phần do cố công rèn luyện mà nên ...

    Các Đấng cho chúng ta cơ hội - Đạo Phật còn gọi là Nhân duyên! Có nắm bắt và tiến bộ được hay không, điều đó tùy thuộc vào bản thân, không phải do các Đấng!

    Một tảng đá xù xì - cho dù có bẩy được nó lên, đưa đi đến đâu thì nó vẫn là một tảng đá. Nhưng một hạt giống khéo ươm trồng, dày công chăm bón có thể cho chúng ta cả một mùa vàng ...

    Tôi kể cho các bạn nghe những việc mà bản thân tôi có thể làm được - đọc qua có thể bạn cười xòa, phán cho một câu: “nói dóc” cũng xong! Thế nhưng - nếu bạn có phần nào quan tâm, nghiên cứu hoặc có điều kiện để rèn luyện - thì sẽ có lúc nào đó trong đời, bạn sẽ làm được như vậy, hoặc còn hơn thế rất nhiều!

    Tuy nhiên - có điều khó minh chứng là phép chỉ thiêng 100% khi ở vào tình huống cần thiết đột xuất ... Tôi đã tự tạo ra tình huống tương tự thì phép chỉ có tác dụng rất hạn chế.

    Xua bụi, khói:

    Nhà tôi ở vùng thôn quê, khói đốt đồng hoặc rác thải là chuyện thường ngày - Mỗi lần đốt lên bụi khói dày đặc khắp nơi ... nhà ở kế bên tôi chuyên nghề nhặt phế liệu, đốt dây điện lấy đồng, hoặc bao bì nhựa liên tục mỗi ngày. Những lúc ấy tôi bị bế phổi, khó thở và ho sặc sụa ...

    Có lần tôi và cô Tiến ( HV nhân điện) đang ngồi nhặt rau, đến khi hay ra thì toàn bộ căn nhà đã chìm trong mù mịt khói! - Tôi vội đóng kín cửa và trục khói. Khói ngớt dần, độ chừng năm phút sau thì hết hẳn trong nhà, lúc đó ngoài sân khói vẫn còn dày đặc ...

    Vì có điều kiện thử thách thường xuyên mà tôi tiến bộ, chẳng phải sao! Lúc đó toàn bộ các cửa lớn và cửa sổ trong nhà tôi đều đóng kín - Tôi ngồi một chỗ trụ thần, cho thể Vía của mình mở cửa và dùng trường điện đẩy hết bụi khói ra ngoài ... Đến tận giờ, tôi suy nghĩ mãi vẫn không hiểu bụi khói ấy bay hết ra ngoài bằng cách nào, trong căn nhà đóng kín cửa!

    Xua mùi hôi, xú uế:

    Tôi cũng làm y cách xua bụi khói, mùi hôi thối bớt dần, chừng độ năm phút thì hết hẳn ...

    Mùi phân sống bón rẫy, mùi xác đậu hũ thối, mùi thuốc rầy, thuốc sát trùng các loại ..v. .v.

    Lúc nửa đêm - không khí cô đặc lại trong phòng đóng kín cửa, các mùi xú uế ấy làm cho ngộp thở ... Tôi chỉ cần ngồi dậy trụ thần trục mùi thì được ngay, có một gi ấc ngủ ngon, không bị tra tấn như một cực hình nữa.

    Sau nhà mẹ tôi ở chợ Hiệp Thành là xí nghiệp sữa ViNaMilk, mùi hóa chất thải ra trong không khí thực không thể nào chịu nổi ... Người dân và chính quyền địa phương đã nhiều lần đưa đơn khiếu kiện, vẫn chưa thấy khắc chế được gì!

    Trong một buổi chiều mưa tầm tã, khí độc và mùi hôi tràn vô nhà rồi trụ lại đó, mưa lớn đến nỗi các cửa đều đóng kín - bi ết trốn đàng nào ...

    Tôi không nói gì, lặng lẽ chui vô buồng ngồi một mình, trụ thần mở cửa - xua mùi hôi ra khỏi nhà! Các em tôi đang ngồi bên mâm cơm - than trời trách đất nãy giờ ... Sáu Quang vỗ tay bảo: “ Hết hôi rồi, ăn tiếp!” - Đâu hay chị Hai ngồi trục khói, có nói ra, chúng cũng chẳng tin cho

    Chỉ có một ‘Chị Hai” ngồi đó - cười mãn nguyện ...

    Ngăn mưa:

    Người ngoài nghe qua sẽ cho rằng tôi nói “chuyện Tề Thiên” - Chỉ có bé Chi - con gái tôi là tin vào điều ấy! Vì cháu đã chứng kiến nhiều lần, từ lúc còn nhỏ tám, chín tuổi đến giờ ...

    Hai mẹ con cọc cạch chở nhau bằng xe đạp đi từ nhà, dưới chợ Hiệp Thành về nhà trên (Âp Đông) - Bắt đầu chuyển mưa, trời đất tối sầm ... rồi mưa rơi ... Lúc ấy, tôi thấy Vía mình che hai tay lên đầu thoắt bay lên đứng trên không, chắp tay xin thần Mưa cho ngớt hột để kịp về tới nhà! Thế là hai mẹ con đạp xe tới đâu, mưa ngưng đến đấy về đến nhà, vừ a tra chìa vào ổ khóa là mưa ập tới ngay tức thì ...

    Tuy nhiên - nói thì dễ, thực hành lại khó. Ta vừa phải trụ thần cho vững, lại phải đạp xe nhanh ... Nếu trên đường lúc ấy có nhiều xe thì tôi thua - vì lo né tránh xe cộ qua lại, tôi không trụ được thần! Cũng cần phải chạy nhanh, kẻo ông thần Mưa nín lâu sinh buồn lòng, mai mốt đừng hòng xin được nữa - “Tận nhân lực mới tri thiên mệnh” mà!

    Một chiều nọ - chuyển mưa “đều trời”! tôi lo rối ruột vì hai sào quần áo đang phơi ở nhà trên Ap Đông, tôi vội vô buồng ( ở nhà dưới Hiệp Thành - trong lúc đồ đang phơi ở nhà trên Âp Đông). Tôi ngồi trụ Thần xin Thần Mưa cho chừa lại khu đất nhà mình (Vía lúc ấy đứng ở ngoài đường trước cửa nhà trên này), để quần áo không bị ướt.

    Trời mưa một trận lớn kinh khủng! Khi mưa hết, tôi từ nhà dưới chạy về - không thể nào tin vào mắt mình - trọn một ngõ hẻm nhà tôi dài một trăm mét không hề có một giọt mưa, còn lại tất cả phố sá chung quanh mưa ngập đường, ngập lối ... Chị Chín nhà kế bên bảo: “Thấy trời chuyển mưa lớn quá, tôi bảo mấy đứa nhỏ leo rào qua lấy quần áo của chị - Ai ngờ trời không có một giọt mưa ...”

    Xua giông bão và sấm chớp:

    Con đường nhà tôi nằm kề đồng ruộng, lo nhất là mùa mưa bão - Giông gió giật đổ cây, tốc nóc nhà là chuyện thường! Mỗi lần giông tới gió bay đá chạy rầm rầm từ nhà này sang nhà khác - Hai mẹ con ngồi lo ngai ngái, chỉ sợ nhà sập bất tử!

    Về sau - Chỉ cần ngồi trụ thần chuyển Vía đứng giữa trời, quay mặt về hướng giông gió mà xin ... Độ vài ba phút là trời hết giông, ngớt gió ngay!

    Có lần giông kéo đến ầm ầm và mưa to kinh khủng - Vía tôi thấy mình lên giữa trời chắp tay xin mà giông vẫn không ngớt bèn dang hai tay ra xoay vòng tròn chầm chậm trên không ... Gió giông và những giọt mưa chạm vào tôi, tóe lên như muôn vì sao bạc - Độ hai ba phút sau thì giông ngớt! Xác trần của tôi ngồi trên giường phát run bần bật, khi cơn giông qua đi - tôi vừa thu thể Vía của mình lại thì bắt đầu lên cơn rét, y như vừa từ ngoài giông gió trở về ...

    Lần nữa - trong một buổi chiều trời mưa lớn đến nỗi nước ngập cả con hẻm trước cửa nhà tôi, nước bắt đầu dâng cao đến nỗi sắp tràn cả vào khoang chứa máy bơm trên thềm nhà cô Tiến. (Che dù đội mưa, cô Tiến chạy sang nhà tôi ‘Chị xin Điển cho trời ngớt mưa đi! Mưa sắp ngập hư hết máy bơm nước nhà em rồi!)

    Tôi trụ thần chuyển thể Vía lên giữa trời, thấy tứ bề tối đen, mưa đều khắp, tôi bảo cô Tiến: “Mây đen còn dầy đặc - Hết mưa thế nào được, thua rồi!”

    Cô Tiến bảo: “xin Mẹ cho ngớt mưa đi!” - tôi chắp tay xin Mẹ Diêu Trì ứng cứu, thấy Mẹ đứng trên mây, chìa tay về hướng nhà tôi - Mẹ nói: “mười lăm phút nữa mưa mới hết, con à!” ... Lúc ấy tôi nhìn lên đồng hồ: bốn giờ chiều! - Đúng bốn giờ mười lăm phút mưa dứt, gần như đột ngột vậy ... Cô Tiến chạy ra sân, quay vào: “ Mẹ cho nước rút cạn hết rồi, chị ra mà coi!”

    Quả thật - trời vẫn mưa rất to, thế mà khi cơn mưa vừa dứt, nước đã biến đi đàng nào cả rồi.

    Cơn bão số hai năm 2007 - Nha khí tượng báo là sắp có cơn bão lớn nhất trong vòng mấy mươi năm trở lại, ước tính rằng bão sẽ đi suốt chiều dài đất nước từ Bắc vào Nam và mức độ tàn phá sẽ là rất lớn! Chánh quyền cho lệnh di tản dân chúng vùng ven biển suốt từ Bắc trở vào, cách xa biển 2km, sử dụng mọi biện pháp để đề phòng triều cường và bão lũ ... Cả nước như ngồi trên lửa!

    Lúc đó trong nhà tôi - hai mẹ con cùng cháu Minh ( HV Nhân Điện) đang ngồi nghe tin bão. Minh nhắc : “ Cô!

    Xin Điển Mẹ cứu đi cô!”. Tôi suy nghĩ một chút rồi đứng trước truyền hình nhắm mắt trụ thần chuyển Vía đưa theo ven biển từ Bắc vào Nam, đi tới đâu dang tay xin chuyển năng lượng vũ trụ để ngăn nước biển và triều cường, xin cho tan bão! Vừa chuyển năng lượng vũ trụ, tôi vừa chắp tay cầu khẩn Thần Biển, Thần Mưa bão và Sấm chớp ứ ng trợ ... Lúc đó, cả người tôi lắc lư - cháu Minh đứng sau lưng cứ sợ tôi ngã!

    Cách hai giờ sau, đợi lúc truyền hình báo tin bão tôi lại trụ thần xin và chuyển năng lượng thêm lần nữa - Năm giờ sáng thức dậy ngồi thiền nhận điện xong lại đưa năng lượng lần thứ ba ...

    Sáng hôm sau lúc bảy giờ - cơn bão số hai cũng đến, chạy suốt chiều dài từ Bắc vào Trung và là cơn bão hiếm thấy xưa nay: một cơn bão khô - không có mưa lớn và cũng không có triều cường!

    Tôi biết - không chỉ riêng mình, mà cùng một lúc còn có rất nhiều người là học viên Nhân Điện trong cả nước nguyện cầu, làm cho các vị Thần động lòng thương xót mà “nới tay” cho đấy thôi!!

    Tăng trưởng khí đốt: Lâu nay, tôi chỉ mới thử nghi ệm có vài lần - kết quả rất tốt ... Mỗi bình gas nhà tôi sử dụng trung bình độ hai tháng, khi hơi gas sắp hết, lửa sẽ trở đỏ và cháy yếu đi - cao lắm chỉ sử dụng độ chừng mười, mười lăm phút nữa là cùng!

    Tôi gọi em mang gas tới (em gái út của tôi bán gas). Hôm ấy hết hàng, cô út bảo tôi: “Để em đi mượn chỗ khác mang lên cho chị!”. Nói rồi quên mất!

    Tôi trụ thần chuyển năng lượng làm tăng trưởng hơi gas, sử dụng thêm hai mươi ba ngày nữa mới hết hẳn!

    Vừa rồi, tôi lại làm tăng hơi gas - dùng đến ba tháng hai mươi ngày mới hết ... Quả là điều kỳ diệu, vì thời gian ấy đang vào dịp tết, thức ăn trong nhà nấu nướng nhiều và liên tục.

    Cũng không dễ - vì mỗi lần mở bình gas để nấu đều phải đưa điện tăng trưởng hơi gas, chỉ cần quên chừng mười phút là ... gas hết!

    Mỗi lần đổi gas tôi đều ghi rõ ngày tháng cũng như giá tiền, nên vi ệc làm tăng trưởng hơi gas kết quả “rõ ràng như đếm”!

    Những người có khả năng thu năng lượng vũ trụ vào mình, có nhiều điều kiện phát triển tiềm năng hơn người khác - Nếu cố gắng rèn luyện ... cũng có khi như một kết quả hiển nhiên!

    Từ ngày bắt đầu học Nhân Điện (Năm 1999) tôi đã mua một chiếc đồng hồ đếm giây để canh thời gian luyện tập và chữa bệnh. Đến tận giờ - tròn mười năm - vẫn chưa hết pin! Cục pin ( loại pin đũa nhỏ bằng ngón tay út) sau mười năm đã ngã màu đen dưới đáy, thỏi than chứa bên trong co thể tích, vỏ thiếc bao bên ngoài đã lõm phần tiếp xúc ở đầu cực - thế mà vẫn “ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ” của mình. Đây có phải là ‘Chuyện hy hữu” không - khi tôi biết đa số các loại pin đều bị giảm tuổi thọ theo thời gian, cho dù có sử dụng hay không!

    Pin trong chiếc đồng hồ đếm giây của tôi sau mười năm vẫn sử dụng tốt, và tôi mong muốn nó sẽ đồng hành cùng tôi cho đến ngày ... tận thế - bạn có muốn nhìn thấy nó không? - biết đâu có một ngày cục pin ấy sẽ được trưng ra ở viện bảo tàng cổ vật, một thành tựu của người “Hành giả Nhân Điện”, hay một sản phẩm được bảo tồn giá trị bằng “năng lực tâm linh”

    Đến chuyện chữa bệnh cho động vật:

    Chữa cho người còn thấy dễ tin hơn - vì con người “đồng chủng” với “thầy chữa”, và con người có ý thức thu nhận năng lượng, con vật có biết gì đâu! Vậy mà chữa cho loài vật kết quả cao hơn - thế mới lạ!

    Mèo, chó, gà, vịt, chim muông, ngay đến ... thằn lằn, rắn mối - tôi đều chữa qua cả rồi!

    Hai con thạch sùng cắn nhau, một con rơi từ trên tường cao xuống đất nằm chết dí! Tôi lại gần, lấy que động vào, nó vẫn không nhúc nhích ... Thế mà sau khi đưa điện cấp cứu, nó vùng dậy phóng chạy mất tiêu!

    Ơ chỗ tôi mèo chó trúng độc liên miên vì ăn phải thuốc trừ sâu ngoài rẫy - con nào ăn xong cũng sùi bọt mép, nằm ngay đơ! Tôi cấp cứu cho nó một lần, xong bảo chủ tìm chỗ để cho nó nằm yên, độ sáu, bảy giờ đồng hồ sau chữa thêm lần nữa, thể nào nó cũng khỏe lại - và sang ngày hôm sau thì ăn được, chữa thêm một, hai lần, con vật trở lại bình thường!

    Kết quả tốt hay không, còn do ta biết “linh động”, không chỉ đưa năng lượng một cách tùy tiện - mà phải theo bệnh chứng mà chữa, tác dụng sẽ nhanh hơn!

    Ví dụ: con chó, con mèo trúng thuốc trừ sâu, ta cho điện vào đầu (trung khu thần kinh) đẩy hết độc ra, xong vào bộ phận tiêu hóa: Cổ họng, bao tử, đường ruột, gan thận, đại tràng, hậu môn ... Cho năng lượng đẩy dần chất độc xuống hậu môn cho ra ngoài, đồng thời triệt tiêu chất độc còn tồn đọng trong toàn cơ thể, lần nữa cho năng lượng làm khỏe!

    Con vật bệnh bỏ ăn, ta cho điện chấn chỉnh lại các hoạt động của đường ruột, làm tiêu hơi và làm cho thèm ăn ...

    Chẳng biết các anh, chị nhóm Nhân Điện khác thì thế nào, riêng cách chữa bệnh của chị em nhóm của chúng tôi cam đoan là “hổng giống ai!”

    Chữa cho loài vật, xưa nay tôi chỉ biết chữa trực tiếp - Đầu năm 2009, sau tết - Huynh Trần Thọ Vệ (Bút hiệu là Song Thanh) nguyên là người bạn thơ cao tuổi - nhà ở tận Tỉnh Phú Thọ ... Qua điện thoại xã giao thăm hỏi đầu năm, than rằng : “Nhà có mấy chú “cún cưng” - hôm trước con chó mẹ bỏ ăn rồi chết, thuốc men chẳng ăn thua! Giờ lại tới hai con chó con không biết làm sao mà cứu ...” Suy nghĩ một giây, tôi bảo: “Để Tịnh Vân thử chữ a gián tiếp xem sao! Huynh chỉ cần đặt tay lên đầu nó, tay kia cầm điện thoại - Tịnh Vân sẽ chuyển điện cho Huynh, chuyển từ bàn tay sang đầu con chó nhỏ!”

    Đầu tiên tôi cho năng lượng ổn định đường ruột, làm tiêu hơi, sau đó chuyển Vía của mình đến bên con chó- cầm tô cơm đưa vào miệng dụ cho nó ăn!

    Đương nhiên là lần đầu tiên con chó lách đầu sang bên- không thèm nhìn tô cơm, hai con mắt ngầu đục, mệt mỏi ... Lần thứ hai ( tức là ngày hôm sau) nó liếm láp qua loa một tí! Sang ngày thứ ba thì ăn uống trở lại bình thường như cũ, vừa ăn vừa sủa hục hặc, cái đuôi ve vẫy như mừng vui và cảm ơn tôi vậy!

    Sau ba ngày điều trị gián tiếp từ xa, qua ... điện thoại hai chú chó nhỏ đã hoàn toàn bình phục và đến tận giờ đã “lớn tướng” cả rồi! Ông chủ mừng quá, trả công tôi

    + Năng lượng chung của vũ trụ khi chúng tôi sử dụng thu vào hoặc phát ra có màu lam nhạt, tựa những bụi nước nhỏ li ti, khi phủ xuống trông như ta đang buông một tấm mành bằng hơi nước

    + Khi dùng năng lượng để trục âm, tà khí hay trọc khí - tôi thấy năng lượng xuống thẳng đỉnh đầu như một cột thủy ngân.

    + Khi phủ trường bảo vệ cơ thể người, tôi thấy năng lượng xoáy xuống đỉnh đầu xong rồi xoay tròn, bao phủ chung quanh theo hình trôn ốc. Khi năng lượng bị khự ng lại hoặc ngắt quãng, thế nào trong xác trần vẫn còn âm bằng ... “ba tấm ảnh chó con”!

    Vậy đó - cách theo dõi điều trị và định bệnh bằng tà. Ở ngạ quỷ và yêu tinh thì đôi mắt là chủ lực - ngạ

    thần thức đạt kết quả rất cao. Tuy nhiên cách nầy cần trụ thần cho thật vững, và phép “xuất thần” để đến bên bệnh nhân, cách truyền thần để hỗ trợ cho “thể Vía” ... Vì vậy - chỉ có những người thầy đã học lớp cao (từ 18 trở lên) tôi luyện phép “xuất hồn” có xuất được thể Vía của mình thì mới có thể đến bên bệnh nhân (chữa gián tiếp qua điện thoại, hay qua thân nhân người bệnh) được!

    Qua thể Vía của mình tiếp xúc cùng thể Vía của bệnh nhân, tôi chẩn bệnh đúng hơn - trong lúc điều trị, sau khi chuyển năng lượng tác động lên bệnh, tôi đã có thể biết ngay bệnh nhân có chuyển biến tốt hay vẫn chưa thay đổi!

    Cũng bằng thể Vía, tôi nhìn thấy màu sắc của các dạng năng lượng như nhìn thấy bằng mắt người vậy!

    + Tôi thấy hào quang ( hay năng lượng) của Phật và của Phật ấn (hình chữ Vạn) màu vàng ròng rực rỡ ...

    141

    quỷ có đôi mắt đỏ rực màu máu, màu của sự sân hận, căm thù và uất kết ... nó làm cho ta có cảm giác đang đứng trước lửa đạn, rừng gươm!

    + Loài yêu tinh có đôi mắt màu xanh ve chai lạnh lẽo, vô hồn - Nhìn vào đó ta thấy rùng mình, ớn lạnh và “sởn gai ốc” từng luồng ... Cái lạnh không tài nào kềm nén được! Đi theo luồng lãnh khí chạy dọc sống lưng là nỗi sợ hãi vô cớ, nỗi kinh hoảng cũng tột độ mà không biết do đâu, vì đâu mà có!

    + Còn một loại đáng sợ nữa là dạ xoa! Ông bà xưa nói: “xấu như quỷ dạ xoa!” thật đúng - dạ xoa là loài quỷ có gương mặt biến dạng, bị tàn phá vì tai nạn hay đột biến

    trông thật là kinh khủng! Có lẽ vì phẫn hận với hình dạng xấu xí của mình, nên dạ xoa cũng là loại quỷ hung ác nhất!


    + Màu của các vị Thần là màu đỏ của lửa - màu của sự hùng tráng, oai dũng, của chiến đấu và chiến thắng - Hay tượng trưng bằng mũi tên màu lửa xuyên suốt vào đỉnh đầu của ta, đau buốt tựa kim châm!

    Đến đây - xin phép chấm dứt đề mục khó hiểu, khó tin và khó rèn luyện nhất trong HMLK - ta chuyển sang: “Người thật việc thật” bạn nhé!

    THỰC HÀNH CỤ THỂ (12)

    Cậu Th. nguyên là luật sư, trưởng phòng công

    chứng số 2, tỉnh là em kết nghĩa của tôi! Trưa mùng

    tết đi chơi về bị tai nạn rất nặng, nằm úp mặt, chết dí bên vũng máu ở vệ đường. Người qua đường điện về nhà báo tin, không ai dám động chạm, xoay trở cơ thể cậu Th., vì nghĩ rằng bị gãy xương cổ hay cột sống, và đã chết rồi!

    Cô L. (học viên nhân điện) lúc đó đã học xong lớp 13, là em gái của Th., cùng gia đình vừa tới nơi! L. bình tỉnh đưa điện cấp cứu, chỉ 30 giây sau cậu Th. choàng tỉnh, leo lên xe máy cho người em chở đi bệnh viện!

    Mãi đến 7g30 tối, cô L. mới liên hệ được với tôi. L. nói Th. hiện tại cả gương mặt đều sưng rất to, bầm tím tụ máu không còn nhìn rõ nét, vào bệnh viện thì hôn mê trở lại đến giờ chưa tỉnh!

    Tôi trụ thần cấp cứu cho Th., thấy trong căn phòng lúc ấy có bốn, năm hình bóng lờ mờ như sương khói bay chập chờn chung quanh giường bệnh, nơi cậu Th. nằm. Những chiếc bóng không rõ dạng hình với những đôi mắt xạ ra tia lửa màu xanh thẳm lạnh lẽo... Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi thấy “yêu tinh” bay!

    Linh tính cho biết cậu Th. chắc không qua khỏi, tôi

    xin lực trợ cứu của các Đấng, xong rồi mượn lời năn nỉ,

    xua chúng đi chỗ khác, hứa sẽ cúng lộc thực cho ăn! Độ

    chừng hai phút sau, m ấy yêu tinh ấy lần lượt bay ra cửa

    phòng, đi mất. Từ đầu tới cuối tôi chẳng nhìn thấy thực

    144

    thể chúng như thế nào!

    Quay lại chữa bệnh cho Th., tôi cho năng lượng vào trung khu thần kinh, bảo toàn bộ não, làm tỉnh, làm hết hôn mê - vào gương mặt: làm tan máu bầm, dẫn lưu khí huyết, làm lành các vết sang chấn, cho năng lượng đi vào toàn bộ cơ thể và tứ chi dẫn lưu khí huyết thần kinh, thông

    và nứt xương từ chót mũi lên trán, đến ngay chớn tóc. Tuy Th. vẫn nói chuyện tỉnh táo nhưng tôi biết thần kinh bị chấn động nhiều. Tôi chữa cho Th. mỗi ngày hai lần (qua điện thoại): ốn định thần kinh, hàn vết nứt xương trán, triệt tiêu máu bầm tồn đọng trong não, dẫn lưu máu huyết và thần kinh, làm mau lành và tan sẹo vết sang chấn trên

    ách tắc và bảo toàn các cơ quan nội tạng cũng như tứ chi.

    Năm giờ sáng hôm sau, tôi lại ngồi thiền định đưa

    má.

    Sáng mùng 7 (tức sau 4 ngày điều trị gián tiếp, mỗi

    năng lượng cấp cứu lần hai, lát sau thì cô L. điện báo cậu Th. đã tỉnh, và nằn nặc đòi về. Lúc đó mới là sáng mùng

    tết năm Mậu Tý! Đêm đó cùng phòng cấp cứu có mười nạn nhân tai nạn xe cộ, và đã chết hết tám, chỉ còn lại Th. và một người nữa. Cậu Th. thấy vậy sợ quá nhất định đòi ngày hai lần!), cậu Th. đã phải đến phòng công chứng để nhận nhiệm vụ mới... Cả nhà cùng tôi đều lo lắng, chỉ e Th. bị ngất xỉu dọc đường hoặc có biến chứng về thần kinh! Tất cả mọi sự đều suông sẻ!!

    Một người bị tai nạn xe cộ “thập tử nhất sinh” như về!

    Bệnh viện không cho, nhưng gia đình năn nỉ quá, bác vậy, đã trở dậy đi làm sau có. bốn ngày rưỡi, chưa đến năm ngày! Lại phải đứng ra nhận bàn giao nhiệm vụ mới,

    sĩ bắt ký vào bản cam kết rồi mới cho về! Chiều mùng 3 tôi lên nhà Th., và không tin vào những gì mình chứng ki ến: Th. tỉnh táo, nói năng rành mạch, khuôn m ặt hoàn toàn hết phù, chỉ còn hai vết trầy xước, vết bầm tím trên mặt và gò má trái... Tôi ngẩn ngơ, chả lẽ cô L. nói không đúng!

    Gặp Mẹ Th., thím cũng xác nhận y như L. nói lúc chiều hôm qua. Phải cho là “kỳ diệu” trước nguồn năng lượng cấp cứu của Thầy Tố và các Đấng!!

    Khi cô L. tới nơi, cậu Th. đang nằm “chết cứng”. Vậy mà sau luồng điện cấp cứu của L. đã chỗi dậy leo lên xe máy ngồi cho cậu em rễ chở đi bệnh viện.

    Khi chẩn bệnh lại, tôi thấy Th. bị vẹo vách ngăn m ũi

    145

    quan trọng và khó khăn nhiều lần hơn công tác cũ! Quả là chuyện “thần kỳ” phải không các bạn?

    Tôi chữa thêm mỗi ngày một lần (tất cả chỉ là điều trị tầm xa, bằng điện thoại!). Hơn nửa tháng sau thì Th. hoàn toàn trở lại bình thường. Điều kỳ diệu nữa là hai vết trầy sướt trên gò má đóng vảy và bong ra từng lớp như vảy cá, không đau rát gì, còn lại hai mảng da sạm đen, vài tháng sau vết sạm cũng biến mất.

    Cậu Th. bảo: “Bây giờ mà nghĩ lại vụ tai nạn ngày hôm ấy, em vẫn thấy cứ như một giấc mơ, vì không có di chứng gì, không đau đớn nhiễm trùng hay dị tật. thật là lạ lùng!”.

    Th. còn kể: “Hôm ấy rõ ràng em bị phần âm kéo làm

    146

    xảy ra tai nạn, vì đang chạy xe chậm một mình trên quảng đường vắng vẻ, tự dưng nghe “rầm” một tiếng, người ngã ra và văng đi, hôn mê luôn chẳng hay biết gì!”.

    Ngày hôm sau gia đình tìm tới nơi xảy ra tai nạn dò hỏi, mới biết Th. tông vào một cô gái đang bế con nhỏ băng qua đường. Đứa bé ngất xỉu đưa đi cấp cứu ở bệnh vi ện, lát sau thì tỉnh lại và không có trầy xướt chi hết! Chuyện quả là “kết thúc có hậu”! Vì nếu đứa bé có mệnh hệ nào, hoặc cậu Th. bị ảnh hưởng thần kinh thì tiêu tan sự nghiệp vừa mới nắm trong tay!

    Giờ cậu Th. là một trưởng phòng công chứng giỏi, một thanh niên đẹp trai, thành đạt và sắp. có vợ!

    Phong - em trai thứ tư của tôi, một buổi sáng nọ bị xe đụng, nguyên phần mũi, má và một bên mắt sưng to, đỏ và bầm, không thở được bằng mũi.

    Ba giờ chiều tôi mới hay, xuống nhà thấy Phong đang nằm và chưa đi bệnh viện khám chẩn - tôi cấp cứu xong, năm phút sau Phong thở được bằng mũi: “Sáng giờ em chỉ thở được bằng miệng thôi, sợ gãy sóng mũi”. Tôi chẩn

    bệnh: “Lệch vách ngăn nhưng không bị gãy”. Sáng hôm sau Phong đi bệnh viện chẩn, bác sĩ bảo không bị lệch vách ngăn ... Tôi chữa thêm bốn lần ( bốn ngày) kèm uống thuốc tây, Phong trở lại bình thường!

    Về sau, thấy mình hay bị nghẹt một bên mũi, Phong đi bệnh viện chẩn lại - Quả nhiên là bị lệch vách ngăn!

    Cậu Danh (cậu em hàng xóm): bị người đánh bằng gậy sắt chấn thương đầu, hôn mê - chuyển đến bệnh viện cấp cứu vẫn hôn mê không tỉnh, kèm nôn mửa ... Tôi nghe

    147

    tin chỉ biết cầu nguyện ơn trên cứu và chuyển điện cấp cứu gián tiếp tại nhà lúc bảy giờ tối - Đến ba giờ sáng tôi thức dậy ngồi thiền cấp cứu lần hai cho Danh.

    Cậu bé không mọc tóc: Hoàng Xuân Đông, bảy tuối Người gầy nhom, da vàng sạm, biếng ăn - bốn, năm ngày mới đi cầu một lần. Điều đặc biệt là không mọc tóc! Nhìn vào da đầu, ta vẫn thấy chân tóc rất nhiều, nhưng nằm cuộn dưới da không chịu trồi lên ...

    Gia đình đã đưa cháu đi điều trị ở bệnh viện Việt Pháp, bệnh viện Bạch Mai Hà Nội và nhiều nơi khác nhưng không có kết quả!

    Ngày đầu tiên, khi tôi truyền năng lượng, bé ngồi nhắm m ắt nghiêm trang, y như một vị Sư đang thiền định. Vừa nhìn, tôi biết ngay cậu bé có phần Linh căn cao ...

    Mời Linh căn xuất hiện - tôi thấy ngay một vị Thiền sư dáng cao ráo, rắn rỏi, người đắp y vàng độ tuối hơn sáu mươi - khuôn mặt nghiêm trang và đức độ! Vị ấy chắp tay xá một cái, nói “Tôi chính là Linh căn chính chủ của cậu bé nầy. Tôi chết đã một trăm mười năm nay mà chư a được siêu thoát, nay xin nhờ cô Hai cầu nguyện ơn Trên giải nghiệp giúp tôi!”

    Tôi hỏi: “Ngài phạm tội gì thế, thưa ngài?” Đáp: ‘Tội tạo chướng nghiệp!” - Tôi nói: ‘Xin hãy kể thực với tôi, tôi mới có thể xin ơn Trên giải nghiệp cho ngài được!” Vị ấy không trả lời, xá một xá rồi rời đi ... Sáng hôm sau - tôi đang ngồi giặt đồ dưới bếp, Vía thấy vị Sư hôm qua vô nhà đứng bên cửa ... Tôi ra hỏi, vị Sư ấy nói: “Tôi nghĩ lại rồi! Tôi xin cô Hai giúp cho!”

    148

    Cũng hơi ức vì chuyện hôm qua ông ấy đã bỏ đi không thèm trả lời - tôi bảo: “Tôi đang bận việc, không thể tiếp ngài, xin hãy đợi đến tối bé Đông sang chữa bệnh thì tôi mời ngài về nhé! ”

    Tối ấy (02/09/2006) vị Thiền sư tới nhà tôi, đi cùng một vị Sư khác, sau lưng lại thấy vong một con chó màu đen bị liệt hai chân sau, lết đi bằng chân trước trông rất thương tâm ...

    Vị Sư kia bước tới xá một cái - vừa nhìn thấy đôi mắt màu xanh tôi sợ quá tống cho một đấm văng ra ngoài...

    Trở vào, ông ấy nói : “sao cô Hai đánh tôi?” - Tôi la lên: “Các người là yêu tinh giả dạng Thiền sư để lừa tôi! Hai mắt xanh lè kia - Lại nữa, người tu hành ai lại dắt chó theo kè kè bên mình như thế bao giờ!” Vị thiền sư kia nói: “Tôi là người Ai Nhĩ Lan, mắt xanh - thưa cô Hai! Con này không phải chó - mà là con hoẵng, nó chính là oan gia trái chủ của chúng tôi đó!” ...

    Rồi họ kể: mình là hai vị thầy tu đi hành hương bị lạc đường ở giữa rừng - Lúc đó đang là mùa đông tuyết phủ rét lạnh thấu xương, lại sắp chết đói ... Thấy gần đó một con hoẵng bị sụp bẫy thợ săn gãy mất hai chân sau, cũng đang sắp chết vì đói và lạnh!

    Biết rằng con vật ấy trước sau gì cũng chết, hai vị sư ấy giết hoẵng mà ăn để tìm đường sống cho mình ... Càng đi lại càng lạc giữa rừng sâu, sau rồi hai người cũng chết vì lạnh và rét! Linh hồn con hoẵng ấy lẽo đẽo theo sau báo oán, nghiệp sát sanh hơn trăm năm trả vẫn chưa xong.

    Ai nghe kể chuyện cũng thấy rùng mình, ghê sợ cho nghiệp quả, vì hai vị ấy là bậc chân tu, nếu thường nhân đã không thành trọng tội! Và nếu ta giết con hoẵng ấy để cứu cho nó đỡ đau đớn, kèm với lời cầu xin siêu thoát cho nó, ta đã lập được công đức rồi vậy!

    Hai vị Sư kia - nếu cam chịu chết vì đói lạnh, ắt linh hồn đã về cõi Cực Lạc Di Đà ... Đường Tu gian khổ trăm bề, một chút sai lầm đã phải chịu đa mang gánh nghiệp ngót trăm năm!

    Lần đó, tôi xin mẹ Quán Âm - Mẹ về hóa giải nghiệp chướng, đưa linh hồn con hoẵng kia đi đầu thai. Còn hai vị Sư Mẹ bảo: “Chờ một thời gian nữa! ”... Con hoẵng được cứu, hai vị Thiền Sư lại chưa - Mẹ muốn làm răn cho đời sau được thấy: “Sát sinh là tội trọng!”

    Sau một tuần lễ điều trị, bé Đông đã đi cầu đều đặn mỗi ngày, không còn bón nữa, ăn uống cũng ngon miệng hơn! Sau một tháng tóc bắt đầu mọc lên lún phún, nhưng ác nỗi mọc bao nhiêu gẫy cụp bấy nhiêu (Vì đã nằm cuộn trong chân tóc quá lâu) ...

    Cô S. (ở gần nhà tôi). Hai vợ chồng có ba đứa con, tuổi chưa đến bốn mươi - ‘Vỡ kế ho ạch” những sáu lần trong vòng có ba năm ... Tử cung sinh biến chứng, đau bụng liên tục - khi đau bụng chướng to lên từng hồi, sờ tay vào nghe như có người trong ấy thổi ra làm cho bụng to dần lên như thổi một quả bóng ... Đau dữ, mỗi lần lên cơn đau đi đứng không nổi, người vã mồ hôi lạnh!

    Tôi chữa hết rồi lại tái - Nghĩ mà thương cho phận đàn bà ... Đã ba lần cô S đi kế ho ạch, tôi đều đưa điện trợ trước và sau khi ra về: cầm máu, giảm đau, ngừa nhiễm

    150

    trùng ...

    Một giờ trưa đến bệnh viện, tối cô S. đã vô nhà tôi - cười toe toét: “Không đau gì cả, nhẹ bâng chị à!” Từ trưa đến giờ “sạch trơn” - không còn ra huyết nữa! ” Tôi nghe chỉ bi ết “cười đau khổ” - cô S. đâu hay biết mỗi lần can thiệp vào chuyện nầy, tôi bị đòn “thê thảm”!

    Lần ấy - Sau khi đưa năng lượng trợ giúp, cô S. ra về, tôi thấy một bé trai bụ bẫm trắng trẻo bò “lổm ngổm” sau lưng! Hôm ấy, tôi đã xin ơn Trên cho đưa vong bé đi đầu thai ...

    Một thời gian độ chừng ba tháng sau, cô S. lại cấn thai lần nữa, không đủ can đảm đi phá đành để nuôi luôn!

    Thai hành kiểu gì không biết - cứ đau bụng liên miên ... Đi khám bác sĩ nói thai khỏe, bệnh viện cũng chẳng biết lý do vì sao cứ đau bụng hoài không hết!

    Vô nhà tôi, tôi sờ vào bụng, lựa lời “ngọt nhạt” năn nỉ chút xíu là hết đau ngay lập tức, về nhà hôm sau lại đau tiếp ... Đến một hôm - tôi bảo linh hồn em bé ra cho mình thấy mặt thì hiện ra một bé con độ chừng sáu, bảy tháng tuổi rất dễ thương, hai mắt tròn xoe trong veo!

    Thấy bé bò lê dưới đất trần truồng trông thương quá

    tôi bảo cô S. về đốt cúng quần áo cho bé. Vài hôm sau, cô S. đau bụng - lại vào! Tôi vẫn thấy em bé trần truồng như cũ, hỏi thì bé lắc đầu ra dấu tay chỉ ra ngoài đường!

    Cô S. bảo đã cúng đồ rồi, chẳng biết sao bé không mặc được ... Điều tra một hồi, ra đồ ấy bị ‘Cửu Huyền” tịch thu mất rồi!

    Tôi đành bảo cô S. về mua bộ khác xong mang vào

    151

    đốt tại nhà tôi, em bé từ đó được mặc đồ! Nhìn mà thương vô cùng: em bé mặc gì như chiếc áo khoác ngoài dài tận gối, không thấy cài nút hay thắt dây gì. Trên đầu đội chiếc nón lá trông như nón các “Anh lính lệ” ngày xưa - nhìn bé, giống y như một “tai nấm biết ... bò”, thương ơi là thương!

    Đến lúc thai gần bảy tháng, cô S. cũng cứ đau bụng hoài như vậy, chẳng làm sao cho hết hẳn được! Hôm ấy, cô S. lại vào - Vía tôi thấy “Điển Ông” đặt đứa bé lên lòng bàn tay thật to - đứa bé ngồi lọt thỏm trong ấy như ngồi trong ghế bành!

    Bàn tay chuyển đứa bé vào trước bàn thờ, trên tầm cao ngang đầu người - có tiếng ông nói: “Lạy ba lại đi, ta

    cho quy y đặng mà chuyển nghiệp” Đứa bé lạy ba lạy ...

    Từ đó cô S. hết đau hẳn. Về sau sanh được một bé gái bụ bẫm dễ thương!

    Khi bé gái tròn ba tháng tuối, cô S. bế con vào thăm tôi, tôi lại thấy vong em bé lủi thủi bò theo sau lưng ... Tôi hỏi, ra bé không nhập xác trần - ngỡ hồn con nhập xác trần cho Mẹ nâng niu chiều chuộng, ai hay con vẫn “cù bất cù bơ” thế nầy - Rồi lúc mẹ bế con đỡ nâng chăm sóc, đâu biết linh hồn vẫn một mình lăn lóc dưới chân ...

    Tôi cho cúng chuyển vong cho bé đi đầu thai, từ ấy đến nay không thấy nữa!

    Nhân việc này - Tôi muốn nhắn nhủ với chị em bạn gái rằng: Nếu nhỡ trong đời mình có bị “vỡ kế ho ạch” hoặc hư thai, hoặc mất con khi còn bé (năm tháng, một tuối trở xuống) - nên tiễn vong đi đầu thai ngay lập tức, đừng để con bò lẽo đẽo theo Mẹ mà mang hận suốt đời!

    152

    Nhất là âm vong còn bé, nếu vì lẽ gì đó mà không được ra đời, bé sẽ phẫn uất mà đeo bám theo phá khuấy cha mẹ mãi không thôi!

    Cỗ cúng cũng đơn giản, không tốn nhiều tiền của và công sức: gồm một mâm cúng Chúa Quỷ và một phần nhỏ cho vong em bé ( để riêng một mâm khác):

    Cúng Chúa Quỷ: một đĩa tam sên - hai chung rượu, hai chung nước, một chén gạo đầy, ba xấp tiền vàng - một đĩa trái cây (không có cũng được)

    Lễ cúng ngay ngày con mất, hoặc mùng hai, mười sáu âm (ngày gần nhất) - Giờ Ngọ hoặc từ bảy giờ tối trở dâng lễ cho ngài ...

    Thắp ba nén nhang đọc bài khấn xong cắm nhang, quay qua đốt hóa tiền vàng!

    *Cúng cho bé (không cần đốt nhang - chỉ khấn thôi):

    một bát gạo đầy, ba xấp giấy tiền nhỏ, một hộp sữa tươi ( đã cắm sẵn ống hút vào) - một đĩa bánh nho nhỏ, một bộ đồ thế cho bé, một cái bao xốp (để bé mang đồ cúng đi)

    +Khấn: Hôm nay, ngay giờ phút này Mẹ (hoặc Cha) xin vị Chúa Quỷ sở tại đưa vong con đi đầu thai sang kiếp khác. Cha Mẹ không có phúc để được dưỡng nuôi con, thôi thì Cha Mẹ cho con bánh trái, tiền bạc và lộc thực - Con đi!

    +Khấn: Hôm nay, ngày., tháng., năm ... Tôi tên: ... mang theo sang kiếp khác để có mà chi dụng, cầu cho con được đầu thai vào một nơi đầy đủ để con được cha mẹ

    có mất một đứa con (hoặc sẩy thai, hút thai) vì lý do (có thể nói theo từng trường hợp: bé bịnh chết hoặc chết trong thai, hoặc vì hoàn cảnh gia đình không thể gi ữ nuôi được đành phải đi kế ho ạch - Nếu con chết nhỏ thì phải khai tên, tuối, ngày sinh, ngày mất)

    Nay tôi biện lễ vật cầu xin vị Chúa Quỷ vùng sở tại địa phương nơi tôi ở (Khai số nhà, địa chỉ nơi ta đang dâng cỗ cúng) - đĩa tam sên, trà, rượu, gạo và tiền vàng bạc nén dâng lên ... Xin Chúa Quỷ ngự về nhận lễ! Cầu xin Ngài nhận vong và ngay lập tức đưa vong đi đầu thai chuyển kiếp, không theo bên tôi nữa!

    Xin ngài cho vong cháu nhận ít tiền bạc, lộc thực của tôi cho cháu, để cháu có mà mang sang kiếp khác không phải sanh vào nơi chốn đói khố, bần cùng! Tôi xin cảm tạ ân đức của Chúa Quỷ. Giờ tôi xin phép hóa tiền vàng

    153

    nâng niu chiều chuộng, vào một nơi biết tu để con hưởng phúc đức về sau.

    Con mau chóng về đây nhận lộc thực của cha mẹ ban cho, rồi theo Chúa Quỷ mà đi, không bao giờ trở lại đây nữa. Cha mẹ đốt hóa tiền vàng cho con đây - Tất cả con cho vào bao xốp mang đi cho Cha Mẹ vui lòng!

    Khấn xong đốt tiền vàng, chờ thêm chừng mười phút rồi dọn cả hai cỗ cúng vào - ăn cả không bỏ thức gì, cũng không cần chờ đợi đến tàn hương mới dọn.

    Cô Th. ba mươi mốt tuối - làm thợ may gia công!


    Cô bị tà nhập từ rất lâu (hơn mười năm) - gia đình đã đưa đi chữa nhiều nơi mà không khỏi. Cô kể: thế lực của tà rất mạnh, có thể mở cánh cửa phòng máy lạnh được khóa từ bên trong. Cứ mỗi lần nghe tiếng gọi là cô Th lại vứt mọi vi ệc đi ra khỏi nhà, người trong nhà không ai cản được.

    154

    Xưa, khi mới mười tám tuổi - có lần cô đã vào nhà xác của bệnh viện để nhận xác chị bạn chết vì tự quyên sinh. Chính tay cô phải kéo những cái xác người từ trong ngăn đựng xác ra để nhìn mặt từng người, đến xác thứ sáu mới tìm ra bạn và lãnh đem về mai táng.

    Vậy mà vài năm sau, chính vong hồn cô bạn ấy lại trở về níu kéo và phá cô Th - đến nỗi cô như một người điên: với nước da xanh tái như da người chết, hai mắt có quầng đen thẫm - Thoạt nhìn ta có thể liên tưởng ngay đến một diễn viên tô hai quầng mắt màu đen, tạo cảm giác kinh dị để đóng phim ma! Hai tay đeo hai vòng hạt trừ tà, sợi dây chuyền trên cổ cũng có phép, đã vậy những thầy trừ tà còn cho cô uống vào người bao nhiêu loại nước phép đầy bùa chú nữa - Thế mà “con ma” ấy vẫn ngang nhiên dẫn xác đi hoài, chẳng hề sợ phép tắc gì! ...

    Với cô Th tôi phải điều tra trong vòng ba giờ đồng hồ, đứng liên tục mỏi rã cả chân - trong lúc người bệnh thì ngồi trên ghế! Phải nói rằng cô Th gần như là một “kho chứa âm vong”, lôi ra phần này lại nảy ra phần khác, tôi mệt đến lả cả người ...

    +Có hai phần yêu tinh về chung đụng với xác trần: một người Việt và một tên người Campuchia có tà phép cao! Tên Campuchia về ở với cô gần ba năm, hắn mang theo hai “đồng bọn” ... Thường các vị thầy trừ tà cũng phải kiêng dè loại nầy, tà phép của Campuchia nổi tiếng là mạnh và đáng sợ, lơ mơ thầy giải có thể bị nôn ra máu, hoặc nhẹ thì cũng rũ kiệt, đau nhức toàn thân chứ chẳng chơi!


    +Lại còn Cửu Huyền: bà Cố tố, Tố cậu và ông Nội của cô theo kề bên - có vong một đứa em hư thai, vong cô bạn chết thành tinh ... ở nhà cô còn có một bàn thờ riêng để thờ lá phép của thầy đưa, tôi trụ thần nhìn, thấy trên ấy ngồi nghênh ngang một ... vong ngạ quỷ!

    Những điều tôi ứng hỏi và đã được báo, cô Th đều xác nhận là đúng: đứa em hư thai, hình tướng của ông Nội và cô bạn gái đã chết ... Cô cũng nhận là mỗi sáng sớm thức dậy thường đau nhừ cả người có khi đau căng tức ở vùng bụng dưới và ra huyết bất thường (là do âm tà về chung đụng với xác!)

    Lần ấy - tôi xin Điển trên cho đưa vong em bé đi đầu thai, bắt nhốt tất cả những phần theo quấy phá, xóa các Lệnh phù trong hai vòng đeo tay, trong dây chuyền trên cố và ở trong người (do uống nhiều nước phép)... Tiễn trả sáu mươi Binh Gia trở về với thầy tố của mình! Chuyện kể thì nghe đơn giản vậy, thực ra chẳng ít nhiêu khê:

    Với Binh Gia phải cung cấp tiền bạc, lộc thực cho họ - với Tướng chủ quản phải dùng lý lẽ thuyết phục để xin xóa lệnh phù! Khi họ chưa vọng động mình cũng không nên dùng thế lực để xử ép hoặc đàn áp họ ...

    Chỉ với một xác trần, xử ra thành năm vụ âm tà - phải nói là đáng sợ! Cứ đau Nam chữa Bắc mãi rồi tiền mất tật mang, lại rước thêm bao nhiêu binh tướng vô nhà!

    Hôm ấy có mặt nhiều chị em Nhân Điện, cũng là dịp may cho chị em chứng kiến cách tôi “hành xử” và tra án!

    Sau đó - tôi đưa hai vòng tay cho cháu Hương và chị Thục giải bùa, chỉ cho chị em cách xử lý - Sau đó, tôi kiểm tra

    156

    lại, hài lòng vì tâm huyết của mình đã được “kết quả như ý” - Chị Th ục và cháu Hương đều giải được bùa!

    Tôi không bao giờ cho mình là “thầy dạy” và chị em

    là “đệ tử” - chỉ là “người đi trước rước người đi sau” vậy thôi... Mỗi một bàn tay, cánh tay ấy vươn dài ra có thể dìu đỡ bao người, hạt giống Thiện nên cây trổ trái thành rừng!

    Rồi sẽ có rất nhiều, rất nhiều người hoạn nạn có chút bóng mát tựa nương, được ấm lòng trong giây phút giữa cuộc đời đầy bất trắc nầy!

    Nhìn chung quanh, bao nhiêu bất hạnh dẫy đầy: thiếu thốn, đói nghèo, tật bệnh, tai ương ... Trái tim mẫn cảm nào lại chẳng thấy lòng mình xót xa, thương cảm! Nếu mọi người trên mặt đất nầy đều có lòng sớt chia một chút những gì mình có, biết chìa ra một bàn tay nâng đỡ cảm thông ... Ngày mai sẽ ngớt mưa dầm, nắng hồng lại tỏ và giông bão dần tan!

    *Sau một thời gian - cô lại đến, mang theo đứa cháu trai độ chừng hai mươi lăm tuổi ...

    Cô Th báo rằng sau ngày tôi làm mọi việc giải tà âm giúp, cô đã hoàn toàn trở lại bình thường không còn di chứng gì và đã đi làm việc như cũ ...

    Đứa cháu trai của cô Th có người mẹ hơi “bất bình thường” đã treo cổ chết trong nhà kho ở chùa, nơi bà thường tới lạy Phật - một chùa ở miền Trung vắng vẻ vào mùa hè nắng cháy ... Đến bốn tháng sau, khi có người hay bi ết thì xác chết đã thành khô!

    Các con thương Mẹ - xin tổ chức lễ siêu độ cho mẹ mình, sư Trụ Trì ra giá: “Ba mươi hai triệu” - năn nỉ mãi,

    157

    sư bớt cho hai triệu còn chẵn ba mươi!

    Tội nghiệp những đứa trẻ vì muốn cứu Mẹ phải đi làm thuê, “thắt lưng buộc bụng”, dành dụm tiền cho đủ ba mươi triệu để về cầu siêu cho mẹ! Thương cho lòng hiếu của mấy đứa con, tôi bèn “Ra tay nghĩa hiệp” ...

    Trước tiên - tôi cho cậu trai ngồi lên ghế, qua đứa con cho gọi vong người mẹ về! Người ấy trông thật kinh khủng: cả cơ thể - nhất là hai tay và phần đầu, màu da đỏ ké như người say rượu, cả gương mặt phù cứng, đôi mắt

    có khoen đen sạm, đặc biệt nơi cố có vết sẹo nằm ngang độ chừng bằng ngón tay cái, hằn sâu như một chiếc kiềng đeo cố - chứng tích của sợi dây thắt cố truyền đời ...

    Vong người đàn bà ấy cho biết mình thường xuyên bị khó thở và đau cố không nuốt được gì! Tôi lấy ba nén nhang khoán hình chữ Vạn cắt đứt vòng dây treo cố, và đem đốt nó thành tro, hóa giải nghiệp “chết treo” cho con cháu sau nầy! Xong, tôi làm thông khí quản và thực quản, dùng Vía đưa mấy cái bánh ngọt, thấy bà ăn ngon lành và báo là “hết đau cố”!

    Tôi bảo các con bà ấy về nhà cúng cho mẹ, một mâm cơm, cho quần áo và tiền bạc, gạo muối ...

    Đối với những vong hồn mang nghiệp Ngạ quỷ, khi sắp bày cỗ cúng xong phải điện báo cho tôi, tôi chuyển Vía của mình đến đấy án Ân Phật vào cho họ thì mới được ăn! Tôi đã biết nhiều trường hợp người nhà cúng cho mâm cao cỗ đầy, nhưng khi gọi vong về thì bảo rằng ăn không được vì đau cố, quần áo tiền bạc thì bị Cửu Huyền tịch thu cả - Cửu huyền cũng chỉ làm theo luật mà thôi, vong vướng

    158

    nghi ệp ngạ quỷ phải chịu đói khát không được ăn, không được mặc... Mỗi năm chỉ được ăn một lần vào ngày giỗ của mình hoặc ngày mùng hai, mười sáu âm hàng tháng (đúng giờ ngọ hoặc giờ âm - từ bảy giờ tối trở đi) Ngày giỗ của mình nếu cúng quá ngọ thì vong cũng chỉ biết đứng nhìn chứ không ăn uống gì được, thực là đáng thương biết mấy!

    Luật nhà Phật rất nghiêm - Ngày trước mẹ Quán Âm Bồ Tát cấm tôi không cho phép “tài trợ âm vong” vì họ có tội mới chịu nghiệp chướng, ta không thể phá lệ được!

    Mỗi tháng vong được cho ăn hai ngày mùng hai và mười sáu! Trừ tháng bảy là tháng “xá tội vong nhân”, từ sau ngày rằm đến hết ngày ba mươi ta có thể cúng bất cứ ngày nào - và vong được ăn thỏa thích, ta vẫn phải cúng vào đúng Ngọ hoặc sau bảy giờ tối, thì vong mới được nhận!

    Tháng bảy sau ngày rằm cửa Địa Ngục mở, các âm vong về cõi thế rong chơi, ăn uống ... Tháng bảy còn là tháng mư a ngâu, mưa thường dầm dề, sùi sụt ngày này sang ngày khác! Ta nằm trong nhà trên nệm ấm chăn êm - nghĩ đến bao cô hồn quạnh tử chiếc thân, xiêu lạc đi về trong mưa gió đêm trường. Hoặc những thân người lang thang không nhà cửa, đói rét cầm canh ... Lòng đau như cắt, lệ ướt vòng mi - bát cơm trắng cũng nghẹn ngào trong miệng, gối ấm chăn êm mà muối xát kim châm! Tôi ước sao mình hóa trăm tay nghìn mắt như Chuẩn Đề Bồ Tát, mỗi cánh tay mang tặng cho người vốc cơm, bát nước, tấm áo, mảnh chăn ...

    159

    Nhân thế ai người biết - khi còn thân người chỉ lo lường cân tráo đấu, tranh đoạt của người chẳng biết làm lành lánh dữ, bố đức thi ân ... Đến khi hồn lạc phách xiêu đầu cây ngọn cỏ, đâu còn cơ hội đổi thay!

    Nhân đây - Tôi tặng các bạn “bài thơ tháng bảy” để kết chương này, vậy nhé!

    BUỒN TÀN THU

    Rả rích tiếng mưa thu, buồn não ruột Âm thầm hơi gió rét - xót đòi cơn Bờ giậu thưa chim lẻ bạn kêu hờn Song cửa hẹp, mộng tàn canh còn lỡ ...


    Hồn ai đó trốn tìm đêm dương thế Giọt mưa ngâu chia hai nửa đời quen Đợi làm chi Chức Nữ với Ngưu Lang Bờ Ô Thước đêm sầu không thấy nữa!

    160

    Cơn sóng bạc vẫy mưa về vội vã Bến giang đầu trắng xóa một trời không Không chia xa nên chẳng hẹn tương phùng Ch ưa sum họp nên nệ gì ly cách!

    Thu buồn lắm - cả một trời thu khóc Đâu vì ai, bởi thu chẳng riêng ai Những oan hồn khi đã tỉnh cơn say Thành bọt sóng, thành mưa sầu trăm ngả...

    Đêm về tựa khóc bên bờ trần thế Mộng giả chân - tàn cuộc có rồi không! Anh ngày lên giữa trời nước mênh mông Ch ờ hóa kiếp hồn hoang thành bọt sóng ...

    Còn lại một mùa thu hoài vô vọng Đâu vì ai, bởi thu chẳng riêng ai Luật tuần hoàn nhân thế trả rồi vay Bu ồn cúi mặt - tàn thu còn sót lệ!!

    NGHIỆP THÉ TRẢ VAY (08)

    Tính tôi hiền, tế nhị lại cả nể - vì vậy lắm khi gặp chuyện “giở khóc giở cười”, giờ nghĩ lại vẫn còn cay đắng.

    Chuyện mười năm:

    Mười năm trước có một ông Giáo sư Anh Ngữ quen với tôi! Nguyên ông là người đạo Tin Lành, lúc nào gặp cũng khuyên tôi theo Đạo. Tôi bảo: ‘Đạo nào cũng tốt cả, nhưng Đạo Phật là gốc nhà không bỏ được!”

    Hôm ấy là ngày rằm tháng bảy năm 1997, buổi chiều sau giờ làm việc ông KL lên nhà tôi chơi, ông chỉ tay vào bàn thờ, ảnh của Phật Bà Quán Âm nói: ‘Phật Bà mà linh, hiện ra cho anh thấy mặt, anh cải đạo theo Đạo Phật liền.”

    Ngồi chơi đến tám giờ đêm, ông KL ra về, cách nay mười mấy năm - con đường Cách Mạng Tháng Tám còn vắng vẻ, ban đêm ít người qua lại lắm, không đông đúc, nhiều xe cộ như bây giờ ...

    Qua khỏi đoạn đường ở cầu Tham Lương, ông KL có cảm giác chiếc xe chở nặng sau lưng! Quay đầu lại - ông KL kinh hoảng khi thấy Phật Bà Quán Âm (bằng xương bằng thịt) đang ngồi trên xe. Ông la lên: “Ai đó ? Sao ngồi trên xe tôi - xuống mau!” Người ngồi sau lưng nói: “Ta là Quán Âm Bồ Tát đây, chở ta về nhà ngươi đi - Ta muốn nói chuyện”

    Ông KL sợ quá - siết tay ga hết cỡ, vốn người thận

    162

    trọng - ông nhìn đồng hồ: tám mươi rồi chín mươi, một trăm, một trăm lẻ năm cây số/giờ! Phật Bà Quán Âm vỗ vai ông : “Cẩn thận con - kẻo xảy ra tai nạn! ”

    Phóng điên cuồng tới đường Au Cơ, quẹo cua vào một khoảng có nhiều bóng tối, ông KL thắng xe lại, hai tay bụm lên mặt cầu xin đức Chúa Trời cứu nạn, bỏ tay ra Phật Bà Quan Âm biến mất ...

    Trên đây là nguyên văn lời kể của ông KL, sáng hôm sau, khi kể lại mọi chuyện với tôi qua điện thoại - ông bảo: ‘Em cầu xin Phật Bà - nói anh yêu em thực lòng, đừng hại anh mà tội nghiệp!” ... Rồi ông KL biến mất!

    Bảy năm sau, mua đất cất nhà ở gần chỗ tôi, ông KL lại ... theo tiếp!

    Phần tôi - chỉ xem KL như một người anh, một người bạn vậy thôi! Khi đến nhà, hai anh em nói đủ thứ chuyện “trên trời dưới đất”!... Cũng thân nhau lắm - tôi có thể ngồi gọt từng thứ trái, bổ ra hai anh em ăn, hoặc làm ly nước quả đưa mời, nhưng tuyệt đối không có tình ý gì với ông ấy!

    Đến một ngày - chịu hết nổi sự theo đuổi của KL ... Tôi thắp hương, quỳ dưới chân Mẹ xin Điển trợ xoay chuyển cho tôi để tôi “dứt được gánh nợ” nầy! Tiếng Mẹ Diêu Trì: ‘Được rồi”! Để đó cho ta!”

    Hai hôm sau, ông KL lên nhà tôi chơi vào khoảng xế chiều, ngồi đến bốn giờ - tự dưng mắt trái của tôi giật ba cái! Biết có chuyện chẳng lành sắp tới, tôi giục ông KL ra về, đứng lên tiễn khách ... Bỗng nhiên - như có “ma nhập”, KL nhào tới ôm cứng lấy tôi, đè nghiến xuống ghế

    ở giữa phòng khách. Vùng ra được, tôi đứng lên chạy đi, ông ta chạy theo ôm níu lại! Điên tiết, tôi tát cho hai tát tai rồi đuối thẳng: “Nói cho ông biết - tôi không phải là con cái để dành cho một con đực. Có muốn thì đi chỗ khác mà tìm ... Cút ra khỏi nhà tôi ngay lập tức! Căn nhà này từ nay khóa kín cửa trước mặt ông rồi!”

    Mãi gần hai năm sau, ông KL vẫn còn lân la đủ cách ... đến nhà, bị tôi đóng sầm cửa ngay trước mặt, ông lại dùng điện thoại kêu van.

    Vẫn chưa đủ dứt nghiệp chướng, ông nhờ bạn bè lên tiếp cận, nói nầy nọ đủ kiểu, đủ điều.

    Bình tâm nghĩ lại, tôi biết đó là do bàn tay Mẹ xoay chuyển đấy thôi! Một người danh dự như ông ấy, lẽ nào làm một điều ô danh giữa phòng khách trong căn nhà kề bên đường - lúc cửa đang mở rộng?

    Sau nầy - qua mọi chuyện, tôi mới biết là, một người có ba hoặc bốn phần hồn: Khi còn sống ta có linh hồn hiện kiếp, thêm Linh căn hoặc Âm căn. Đến lúc chết, Linh hồn vĩnh cửu mới ra mặt!

    1/ Linh hồn hiện kiếp: giống ta, là ta ... cũng già đi theo thời gian và có quan điểm độc lập so với lý trí - Linh hồn và lý trí tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra hành động, ứng xử - đạo Phật gọi là ‘Nghiệp duyên”!

    2/ Linh hồn vĩnh cửu: Hết một kiếp trần, khi con người chết đi, linh hồn hiện kiếp rời thân xác! Quanh quẩn ở cõi người trong cảnh sống cũ ho ặc thụ lãnh ngục hình ở cõi Địa Ngục, lúc nầy linh hồn vĩnh cửu mới xuất hiện, nhập vào linh hồn hiện kiếp, thọ lãnh tất cả những gì tạo tác và mang nó đi đầu thai vào kiếp lai sinh. Lúc này hồn hi ện kiếp triệt tiêu!

    Lại bắt đầu và mở ra một vòng luân hồi mới với những nhân quả tồn tại và mới phát sinh ...

    Chỉ linh hồn nào được về ngôi Cửu Huyền mới còn được tồn tại - Do những tội phước tạo tác trong hiện kiếp mà những phần âm Cửu Huyền cũng mang nhiều dạng thể khác nhau: Ma quỷ, yêu tinh, Thần, Tiên, Thánh .. vv..vv..

    Ai có phúc, được sanh vào Tộc họ có Cửu Huyền biết tu nhân, tích đức được hưởng phước báo tổ tông - Ai vô phúc sinh vào nhà có Tộc họ mang nhiều ác nghiệp như ngạ quỷ, yêu tinh - có Tổ nghiệp làm thầy: Thầy Pháp,

    Thầy Cúng, Thầy Bùa. vì tộc họ nào có Tổ nghi ệp mà hi ện kiếp không có người thọ ấn, hành theo nghiệp Tổ, con cháu bị “hành nghiệp” dữ lắm! Cửu Huyền có âm nghiệp nặng nề cũng phá quấy, trù dập con cháu đủ điều - nói theo ông bà ta xưa “Khó mà ngoi đầu lên được!”

    3/Linh căn và Âm căn: có mấy lý do khi một phần Linh căn nhập thế, đầu thai làm người trần:

    Tình nguyện đi Hành Đạo độ đời:

    Là những phần Linh căn có Đạo quả, Phẩm vị cao như: Trạng Ong Trạng Bà, Trạng Cô, Trạng Cậu, các Thánh Mẹ Thánh Bà, Thiên Tướng, các vị Thần, Tiên, Đồng nam Đồng nữ. Bên nhà Phật có các vị Phật, các vị Bồ Tát và Thánh: Thánh Nữ, Thánh Nam trung, Thánh Nam cao, các vị La Hán, Hộ pháp, các Đồng Nam Đồng Nữ .vv..vv.

    Những vị nầy tình nguyện xuống độ trần, nhập xác làm người cõi thế trong trọn một kiếp trần hoặc chỉ trong

    165

    một giai đoạn nào đó rồi rời đi..

    Ngoài ra, còn có các vị là “Tinh chủ” (Có nghĩa là Vì sao chủ quản), xuống trần mang thân xác trần thế, học hỏi tiếp thu, sinh ra và lớn lên như mọi người, để rồi đến thời gian đã định thì tạo ra những phát minh, sáng chế để lại cho đời sau, dìu dắt nhân loại trên bước đường tiến hóa -

    Người trần chúng ta gọi đó là Thiên tài, Bác học hay Thần Đồng!

    Âm căn: Là phần nhánh khởi ra từ nhánh chính là Linh căn. Các Linh căn khi xuống trần hành đạo độ đời, có khi bị lôi kéo, quyến rũ vào con đường xấu - tạo ra nghiệp dữ, hết kiếp không được trở về, phải đầu thai sang kiếp khác - bao giờ trả hết nghiệp mới thôi ... Âm căn là phần nghiệp báo của Linh căn, luôn phẫn uất, sân si, oán hận vì tiếc nhớ những quả vị của cõi trên! ... Âm căn đáng sợ hơn Âm vong - vì Âm căn có phép thuật do dày công tu luyện mà thành! C ũng vì vậy, Âm căn chính là loại ác độc, hại người không nươ ng tay, vì cậy thế vào tài phép của mình.

    Linh căn thì “lủi thủi” đi theo Âm căn, không thể hành động hay can thiệp gì, chỉ biết cúi đầu chịu đựng sự quậy phá của âm căn! Tuy nhiên - nếu tỉnh táo, Linh căn có thể tác động gián tiếp vào xác trần, xoay chuyển cho xác trần biết lo tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân cách, biết thi ân bố đức để không tạo thêm nghiệp ác và tiêu trừ nghiệp cũ - đến khi tiêu hết nghiệp, phần Âm căn mới được đoạn tận, Linh căn mới được trở về cõi trên!

    Lo ại đi Tu Tập:

    Là những Linh căn xuống trần để rèn luyện, học tập,

    166

    tăng thêm hiểu biết để được nâng cao quả vị!

    Đây thường là những Linh căn cấp nhỏ hoặc trung, cũng giống như lớp trẻ còn phải vào trường lớp, đi học, đi thi để được lên lớp cao hơn - Sau nầy, khi học đã đủ, có bằng cấp cao sẽ được đi làm việc, tạo thêm lộc phúc cho mình ...

    Loại có tội bị lưu đày:

    Những Linh căn ở cõi trên có tội, bị đày xuống thế - Tùy theo tội nhiều hoặc ít mà nghiệp chướng dày mỏng khác nhau! Chịu xuống làm người trần thế trong một thời gian nào đó rồi thôi, được trở về với điều kiện không tạo thêm nghiệp mới.

    Khố sở nhất là loại này, vì phải làm thân người hoạn

    nạn, khốn đốn triền miên...tội nặng còn có nhân dạng bất toàn, bị người đời rẻ khinh.

    Cũng từ đây - Linh căn dễ ngã vào đường dữ do phẫn hận, sân si để rồi tạo ra thêm một nhánh âm căn - lưu đày kiếp này sang kiếp khác, chẳng biết đến bao giờ mới được trở về ...

    Âm căn cũng như “tế bào dị dạng”, một nhánh mọc ra từ gốc là Linh căn, như một bướu độc, ung thư - vẫn là của “chính chủ” nhưng lại là phần xấu nhất: ác độc, hung hăng, kiêu căng ngạo mạn vì có nhiều quyền phép nên thích phá khuấy hại người - Âm căn là sự khốn đốn triền miên của Linh căn ...

    Phần bản thân tôi, tôi khám phá ra mình có hai phần hồn: Linh căn và linh hồn vĩnh cửu, hồn hiệp kiếp tôi chưa thấy bao giờ, hình như nó không hiện diện!

    Hồn vĩnh cửu của tôi là cô gái độ chừng hai lăm tuổi, tóc thề bỏ xõa hoặc cột lại sau lưng, dài đến ngang eo (y hệt như khuôn mặt và nhân dáng của tôi thời hai lăm tuổi). Chỉ có điều cách biệt là gương mặt ấy có vẻ trưởng thành, già dặn và chín chắn hơn so với ngày xưa, nỗi đau đớn và muộn phiền hằn dấu ...

    Linh hồn hiền lành nhu thuận, ngây thơ, cả tin và khờ khạo! Vì vậy - tôi cứ mãi khốn đốn vì sự ngây thơ và cả tin của mình trong đời. Linh hồn thần phục “Điển Ông” vô điều kiện, như một con chiên ngoan đạo với Đấng cứu thế quyền năng.

    Linh hồn vĩnh cửu của tôi hành động và ứng xử độc lập, không liên quan gì đến lý trí cũng như quan niệm và suy nghĩ, cảm nhận của xác trần - hồn cứ như là một con người khác trong tôi!

    Có lần - đang giữa mùa hè nắng đến nung người, trời không có tí gió nào ... Tôi ngồi trong quầy báo nhìn lên ngọn cây bã đậu bên kia đường - gió đang đi qua ở đó, những chiếc lá bay bay ... vụt một cái! Tôi thấy linh hồn

    mình vọt lên đứng đó, trên ngọn cây cao - Gió thối tóc bay lồng lộng!

    Linh hồn của tôi không thấy già đi, đến phút nầy - khi xác trần bắt đầu già nua, t ăng cân ra, da mặt không còn vẻ tươi trẻ ngày nào và mái tóc đã vương vài sợi bạc - Linh hồn của tôi vẫn cứ thế, cứ như một cô gái thanh tân với mái tóc thề buộc lại sau lưng ... Sờ lên đầu mình mái tóc uốn ngắn củn cởn với những nếp nhăn hằn sâu trên vầng trán ... Tuối thanh xuân lặng lẽ qua đi trong gió bụi đường trần, trong dạn dày sương tuyết ...

    Suốt ngần ấy tháng năm - tôi cũng như linh hồn của mình vẫn không nguôi một niềm tin: rồi sẽ có một ngày đời mình hết khố, sẽ tới lúc được nhẹ nhàng thân xác!

    Điều duy nhất mà tôi khao khát là “không còn phải chịu đòn thế cho tha nhân” nữa - Lúc đó ... chắc trần gian nầy đẹp lắm, với tôi!

    Sức đã mòn, lực kiệt mất rồi mà ngày bình an chưa tới. Những “trận đau thế” vẫn cứ kéo dài, dai dẳng và nghiệt ngã, tôi cứ như một tên tội đồ đeo gông, lần bước một mình giữa đêm tối mịt mùng.

    Đến một ngày linh hồn của tôi không còn chịu đựng được nữa - nó bị “điên”! Thường xuyên lên cơn cuồng loạn ... Có lúc tôi đang ngồi đọc sách, cố né tránh cơn đau âm ỉ trong người, bỗng dưng nghe đâu đó từ bên trong dội lên một cơn nức nở vô căn cớ! Trụ thần nhìn lại, tôi thấy linh hồn mình đang nằm trên nệm lăn lộn gào khóc, đầu bù tóc rối y như một người điên ... “Điển Ông” bước tới đỡ linh hồn dậy, nó chòi đạp dữ - không nghe!

    Tôi ra dấu bảo Điển Ông rời đi, bước tới bên cạnh, tôi đỡ linh hồn ngồi dậy, lạ một điều là với tôi nó ngoan ngoãn lắm! Tôi bảo: ‘Nghe tôi nào - tôi đỡ ngồi dậy, để tôi cột tóc lại cho nha. Tóc tai rũ rượi vầy xấu lắm!” ... Rồi tôi nhẩn nha nói: “xác trần tôi mới thê thảm chứ cô thì có làm sao đâu! Hết kiếp rồi cô lại rời đi, lướt gió nương mây nhẹ nhàng thanh thản - còn tôi xác trần đớn đau trọn kiếp, chết đi lại về mục rã cùng cát bụi đó thôi ... Cô phải bình tâm để tôi còn chút thanh trong mà an ủi, cô gục xuống như vầy tôi biết nương tựa vào đâu?”

    Linh hồn lúc ấy ngồi ngoan cho tôi cột tóc và nghe tôi nói, nghe vừ a dứt câu linh hồn biến đâu mất tiêu - chỉ còn một xác trần tôi ngồi đó mà ... khóc!

    Lạ một điều: Tôi chưa bao giờ nghe linh hồn của mình lên tiếng nói, suốt từ bấy đến giờ - Nó thoắt hiện rồi biến đi trong thoáng chốc, không theo ý muốn của tôi. Ngồi nói lan man một hồi, tôi mới biết: ra mình đang nói với ... bức tường câm!

    Dạo gần đây - Linh hồn của tôi vẫn thường xuyên xuất hiện đột xuất và lên cơn như vậy. Có lúc thấy đứng áp mặt vào tường - vừ a cười đó đã rũ rượi khóc rồi! Khi lại múa may quay cuồng trong một vũ điệu hoang dại và bi thảm.

    Quả thật - Linh hồn tôi nó “bị điên” mất rồi!

    Nhân đây, tôi chép tặng các bạn mấy bài thơ tôi làm trong những giai đoạn “xuống dốc” của Linh hồn và thể xác - Mời bạn đọc nhé!

    Thầm lặng ta chờ - đáy mộ sâu Nỗi đau trần thế buốt ngang đầu Thịt da muôn kiếp còn day dứt Vay trả báo đền nợ biển dâu!

    Đợi mãi mà sao đêm chẳng qua Trời ơi - bóng tối cứ dài ra Ch ăn chiếu như trăm ngàn dao nh ọn Thần ác bên rèm đón giấc xa ...

    Ta gọi, hồn ta chẳng trở về Xác trần đau mãi đến u mê Dẫu có chối từ trong muôn một Biết trốn nơi nào - hận tái tê!

    Mạch sống dường như cạn mất rồi Sao còn nấn ná mãi - đời ơi!

    Oan nghiệt nào gieo mà xác tạm Cứ mãi đau vùi... lệ chẳng vơi!!


    VÔ THƯỜNG VÀ BẤT TỬ

    Sự bất tử vẫn nghìn năm tồn tại

    Mặc tháng ngày, mặc dâu bể rồi qua

    Người khép mắt - nghìn sau còn thiền định

    Kẻ tráo trưng suốt kiếp trải phong ba!

    Mây vẫn bay, gió nổi và sương sa

    Lá vàng rụng - mùa tiếp mùa thay lá

    Sinh rồi tử, tử sinh... và cứ thế!

    Chu kỳ đời đâu làm động hồn thiêng

    Hãy cho tôi một chút xíu vô tình

    Trong tượng đá bao ngàn năm trầm mặc

    Một chút xíu thờ ơ trong ánh mắt

    Như nói nhiều - mà như chẳng nói chi!

    Nhân thế ơi! Các người cứ cười đi

    Dẫu cuộc sống phù du như sương khói

    Dẫu hạnh phúc vấp ngã và lầm lỗi

    Dẫu trái tim đầy giông bão, xót xa!

    Tượng đá vẫn ngồi ... thời gian trôi qua

    Người tìm đến chiêm ngưỡng và suy ngẫm

    Bao công thức truy tầm và tưởng tượng Người vân người - tượng đá vân thờ ơ!...

    ĐÊM TRẦN

    Nhớ xua kia hạnh phúc non thanh dạo Th ương trăng nầy ngơ ngác chốn trùng mê Khói trần dương che khuất nẻo đi về Mượn ảo giác chẳng hề thay chốn!

    Cúi nhìn đất... Hoa rơi dài ngọn sóng Ngẩng trông trời - cõi đi gió về mây Phúc dường bao, mà họa có ai hay Đêm Linh tử nhìn trời sa ngấn lệ!


    Góp bào ảnh xây đền đài tráng lệ Gieo huyễn hư nên lớp lớp phù đồ Người ngủ mê, cỏ dại lấp đôi bờ Nẻo sau trước mịt mờ không thấy nữa...

    Ai lang thang giữa một trời biển gió Ai ngậm ngùi trông khói tỏa trùng vây Cu ộc phù trầm chỉ vị đắng men cay Đôi mắt đỏ những đêm dài đất khách!!


    NGUYÊN - BỊ

    Tôi không muốn ngồi vào ghế Bị cáo

    Để nghe đọc bản cáo trạng đời mình

    Không muốn nghe lời Luật sư biện hộ

    (Bởi khi cần nương tựa vào ai

    người ta đã thiếu một phần lẽ phải)

    Trong phiên tòa tối cao của Công lý

    Tôi phải là Nguyên cáo - luôn luôn!

    Và lắm người là Bị cáo, ồ! không

    Đừng lo lắng - Cũng không cần biện hộ...

    Đừng viện dẫn vào điều nầy lẽ nọ

    Đừng đưa trái tim ra làm lá chắn cuộc đời

    Đừng: Hãy vì - Đừng: cố gắng - Chớ: lượng tri!... Ôi! lẽ phải với lương tri vốn ngủ yên từ bấy.

    NÓI VỚI HỒN

    Nếu tôi được cầm cán - cân - Công - lý Tôi sẽ mở ngục hình tha thứ tội nhân Nh ững kẻ vì luân hồi quả báo phân thân Tội tiền kiếp, hiện sinh còn mang nặng! Nhưng trời ạ - tôi chỉ là Nhân chứng Nhân chứng lặng câm của vở kịch đời Và có thể người ta còn nhân danh Công lý Một lúc nào đưa tôi vào ghế tội nhân Bản cáo trạng lê thê với lắm tội danh Đau đớn quá - nếu một mai ... Người ạ! Hãy thông cảm dùm tôi, đời nhiều hư giả (Chẳng nên chìa đôi bàn tay cảm thông) Đừng lại gần tôi hơn nữa - đừng, không! Tôi sợ lắm - nếu một mai phải làm Bị cáo!

    Mai tôi sẽ bay lên (Nếu có ngày mai)

    Khi cuộc sống ở nơi nầy chấm dứt Linh hồn nhẹ khi hồn rời khỏi xác Bay - bay - bay... vào vũ trụ bao la!

    Người cột đá vào linh hồn tội nghiệp Nặng quá chừng, hồn sa xuống âm cung Tôi chắp cánh cho linh hồn chuyển tiếp Nhẹ hồn ơi! Hồn mặc sức chơi rông ...

    Đừng khờ dại chọn nơi nào bến đỗ

    Dây xích thằng sẽ níu giữ hồn hoang

    Bay, bay mãi ... trên cao nhìn xuống nhé! Tội gì chôn thân Địa ngục - Thiên đàn


    TỪ DẠO ĐÓ

    Đừng để tai nghe những lời cám dỗ Thiên đàng nhiệm màu và cõi Trên vui Kẻo lầm lẫn không thể nào cải sửa Hồn có một thân bị giữ mất rồi!

    Hãy lang thang khắp nơi mà nhìn xu ống Đèn hoa muôn màu chớ vội mê say Cái hạnh phúc trong sắc màu lấp lánh Chỉ là mơ, ảo ảnh của phút giây!

    Bay - bay - bay, một mình trong vũ trụ Vũ trụ vô cùng chỉ một mình thôi Ta làm chủ - và ta làm tớ Ta yêu ta... ta yêu quá mất rồi!

    Từ dạo đó ta mang hồn vô tội Đi lang thang trên khắp cả địa cầu Đợi - ki ếm tìm và thổn thức canh thâu ...

    Từ dạo đó ta làm thân du tử,

    Bên vườn đời mục ruỗng những sân si Manh áo khoác như một lời tự thú Phận lưu đày - chờ bão tố thiên di!

    Từ dạo ấy ta làm tên quân thí

    Xây đền đài cho Giáo lý Huyền Môn

    Giọt lệ mặn rỏ trên dòng nhật ký Ngày bôi đen ... rền rĩ khúc chiêu hồn!

    Từ dạo đó con thuyền không bến đỗ Trôi dạt hoài nơi góc bể phù vân Cánh buồm nát càng tả tơi mỗi độ Hồn u uyên cùng sỏi đá song hành ...

    Từ dạo đó lạc loài thân viễn cố Hồn tha ma, chờ nội cỏ đầm sương Trong hoang vu của thành quách thê lương Bầy quạ đói hàng hàng rên rĩ khóc!

    Chờ rút rỉa thịt da người tục khách Trót giam thân vào nơi chốn loạn trường Đợi... Một ngày thanh thản áo trần buông!

    KHÚC CHIÊU HỒN

    Người không có cả một thời quá khứ Người không còn chỉ một chút tương lai Cơn lốc cuộc đời lạnh lùng vây phủ Tiếng gọi tha nhân nặng gánh lưu đày!

    Hoa vẫn nở miệt mài bên hiên vắng Đỏ, tím, vàng... ong bướm lại lần sang Khung cửa khép, gió đi về thầm lặng Tóc còn xanh - rồi tóc ấy võ vàng...

    Câu réo gọi, lời than van thống thiết

    Tiếngphôn reo nhức nhối đến bàng hoàng

    Nguồn An cứu mượn vay cạn trút Một góc đời người ngã gục, hoang mang!

    GỌI TRỜI

    Trời ơi ngó xuống mà coi

    Thảm chi thảm lắm, bắt tôi chịu hoài

    An Trời tôi nắm trong tay

    Cứu người - “An ” cứu - đọa đày thân tôi!

    Trời ơi ngó xuống mà coi

    Tôi đau đớn vậy sao trời chẳng thương?

    Trần ai sầu thảm tai ương

    Trùng trùng sóng lệ, chẳng đường trở lui...

    vẫn xa lắc bến bình yên cõi tạm Khát khao tìm cành trắng đóa Vô ưu Đêm Linh tử vọng trời cao - đòi đoạn Hồn lang thang, lạc lõng chốn sa mù ...

    Người kêu cứu - và ta đợi cứu!

    Người gọi ta, ta biết đợi chờ ai?

    Cơn gió cả tận trời Linh Thứu Dạo qua đời, Đạo thế nào khai?

    Đã cùng tận niềm đau thể xác vẫn chưa thôi đày đọa linh hồn Người ngẩng mặt nhìn trời khao khát Gọi hồn ơi - Hồn bỏ xác bay lên!!

    Trên cao nhìn xu ống ông cười

    Vẫy tay một cái, độ người trần gian!

    Thân tôi làm mướn không công

    Cứu người trời đánh, hỏi ông tội gì

    Tội ngoan cố - tội bướng lì?

    Tội hành sai việc, tội đi sai đường?

    Trời rằng: “Chúng nó vô lương

    Bỏ đi chẳng cứu, tội vương đến mình

    Phép Trời cứu kẻ hiền minh!... ”

    Thưa rằng: “Oán ngập Thiên đình bấy nay!

    Luật trời vay trả - trả vay

    Vay từ tiền kiếp, trả hoài một thân

    Sao không làm phúc ban ân

    Cứu người một phút, khuyến nhân một đời

    “Giơ cao đánh sẽ” cho rồi Làu làu phép trọng, ơn trời bao dung “Con sâu cái kiến ” hàm ân Nguyền xin cải hối tu thân từ rày... Lạy trời lượng cả công dầy Quay lưng ngoảnh mặt thế nầy đành sao! Tôi vì sanh chúng lao đao Bỏ không nỡ bỏ, trời cao chẳng màng! “Mi làm mi chịu, đừng than...

    Mười roi chúng nợ đánh quàng sang mi! ”

    Ông trời - ông thử xu ống đây

    Thế trần lầy lội đêm ngày chẳng vơi

    Ông mà đứng được, thời tôi

    Nguyện xin kiếp kiếp luân hồi chẳng sai!

    ... Ngày mai hết một kiếp người Tôi đây nhất quyết lên trời mà than Các người áo mão xênh xang Làm mưa làm gió - sai oan kể gì!

    Trần ai khổ nạn sầu bi

    Tai ngơ mắt lấp, sá gì Hóa Công?!

    1 giờ sáng ngày 16/10/2009


    VỌNG CẦU

    Khi Thượng Đế không đứng về phía bạn Một mình - nương cậy vào ai?!

    Con thuyền NOÊ cũng đắm Còn trơ một vọng hải đài

    Ta nghe linh hồn than khóc Âm vang rờn rợn thịt da Tê điếng giữa làn môi nhạt Ôi trời - máu chảy thành hoa!!

    Ngọn lửa Âm cung bừng cháy Mạch nguồn Chân lý ra tro Cả một lũ ma vô đạo Nghênh ngang khoác lác giở trò ...

    Nẩy lên - cán cân công lý!!

    Cháy dồn ngọn lửa Huyền Môn Linh Tử làm tên quân thí Dấn thân vào chốn loạn trường...

    Gục đầu dưới bao sức mạnh Đọa đày, chẳng một cứu sinh Ngẩng trông đất trời vô vọng Xin đừng giày xéo lòng tin!!

    25/03/2009

    CÁ VƯỢT VŨ MÔN

    Có lần, trong ngày cúng rằm - Điển Ông đã nói với các chị em Nhân Điện nhóm của tôi: “Mấy mươi năm qua

    chúng ta tôi luyện cô Lan đây như người thợ rèn luyện thanh kiếm thép: nung, dập xong đem ngâm giữa dòng suối lạnh mùa đông ... Lại rèn dũa, lại nung, lại dập... Nhiều lần như vậy, nhiều năm tháng như vậy mới ra một thanh kiếm quý - Là cô Lan ngày nay đó”

    Tôi nghe lời ấy - vừa tủi thân vừa đau đớn không nguôi ... Tôi được lựa chọn để rèn dập nên thanh kiếm quý bất kể tôi có đồng ý hay không, có vui hay buồn, hài lòng hay bất mãn, đau đớn hay nhẹ nhàng, có muốn hay không đi nữa thì định mệnh vẫn cứ đi đúng trình tự của nó.

    Tôi chỉ là một đấu bột, Thượng Đế là người thợ làm bánh - chiếc bánh thành hình như thế nào tùy theo ý muốn của người chế tác! —Thêm mắm dặm muối” hoặc cho thêm cay đắng, ngọt bùi, nặn thành hình tròn méo, bầu dục hay lục giác tùy tay người thợ - tôi đâu có quyền lựa chọn một nhân dáng khác - Tất cả mọi sự cố gắng xoay chuyển, đổi thay đều vô vọng ... Những trận đòn —đau thế” như một lập trình có sẵn - cứ tuần tự đến rồi đi, vừa mới —ngơi” một tí, đã lại thêm người mới, nạn mới và —đòn đau thế” mới ... Tôi như con chim bị nhốt trong lồng, con cá giữa nơm - có vùng vẫy đến đâu cũng chẳng thoát được nào!

    Có lần trong căn nhà mới thuê (Tháng 8/2008) bước vào w.c - Vía tôi thấy một âm vong treo cổ trên xà nhà, đầu tóc gục xuống rũ rượi! Sợ quá, tôi trụ thần trục vong ... Lát sau, nhìn lại thấy vẫn còn nguyên, trục lại thêm lần nữa . vẫn còn!

    Nghi ngờ, Vía tôi thấy mình cầm cây gậy vô, chọc thử vào cái xác, nó đung đưa tòn teng dưới đầu dây - thì ra chỉ là hình nộm: nó nhẹ bâng, bề ngoài trông y hệt con thú nhồi bông, có dạng người - Nổi điên, tôi cắt dây, vứt xuống đất đập cho một thôi một hồi ... cái xác lem luốc tả tơi!

    Chiều hôm sau, vào w.c - tôi vẫn thấy cái xác gớm ghiếc tả tơi ở đó ... Suy nghĩ một lúc, tôi vứt cái xác ra ngoài sân - nơi có đống rác đang đốt! Cái xác người nhồi bông cháy lên được một phần, bất chợt trời đổ mưa, lửa tắt! Cái xác lúc nầy trông còn “kinh khủng” hơn với nửa bên người cháy xém ... Vía tôi thấy mình lấy tấm tole lớn đang để dựa vào bức tường úp lên cái xác - thế là từ đó không còn thấy nó nữa!!

    —Lộng giả thành chơn” là vậy ... Biết giả, sao lòng vẫn cứ tin! Hay: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức - diệt phục như thị??”

    Có lần, đang nằm —lơ mơ” sắp ngủ - tôi thấy mình đi lạc giữa rừng sâu, lúc đó nắng chiều sắp tắt! Vía bảo: ‘Phải tìm lối ra ngay lập tức, đêm tối mà lạc giữa rừng thì chết mất!”

    Đang dấn bước, chợt thấy trước mặt rừng cây chấm dứt, hiện ra một dốc đứng, phía dưới là thung lũng - có con đường mòn thoai thoải ... Vừa lúc đó, tôi nghe trong đầu vọng lên tiếng cười của Ông : “À! Thì ra ông “chơi xỏ” mình đây mà, nào - thì chơi!”. Suy tính một giây, tôi lướt theo dốc đứng xuống con đường phía dưới ... Vừa tới con đường, chưa kịp hoàn hồn - tôi đã thấy hai chiếc xe tải từ xa sầm sầm chạy tới - Con đường độc đạo nhỏ xíu, biết trốn vào đâu bây giờ! Ngay lập tức, tôi hóa phép ra hàng rào chặn ngang đường, làm cho hai xe tới đó gặp rào chắn phải rẽ sang đường khác ...

    Rồi tôi đi lang thang tìm lối về không thấy, trông xa xa phía trước có một xí nghiệp bỏ hoang với cửa rào bên ngoài chỉ khép hờ - Vừa đẩy cửa bước vào, tôi nghĩ ngay: ‘Xí nghiệp bỏ hoang giữa rừng chắc toàn ma với quỷ, và đủ thứ kinh khủng khác - không thể ở đây được!” ... Lùi trở ra, tôi lại nghe thấy Ông cười một tiếng: mặt trời biến mất, chỉ còn bóng tối trước mặt - Tôi điên người thoắt một cái thấy mình nhảy lên giường nhập xác, cuộc phiêu lưu chấm dứt và tôi thắng!...

    Vậy đó - Những đợt như thế này là ông đang “rèn thanh kiếm thép” và tôi là thanh kiếm ấy! Ông luyện cho tôi cách để ứng phó với mọi tình huống - Khi hành xử, tôi bi ết linh động nhạy bén để thủ thắng! Ông cũng như các Đấng không bao giờ ra mặt để giúp tôi, tôi phải tự mình “vắt kiệt óc” tìm phương cách để “giải quyết tình huống” sao cho hợp lý, hợp tình, phù hợp đạo lý làm người và Phật pháp!

    Tất cả những cuộc phiêu lưu nầy, tôi thấy rõ mồn một bằng thể Vía của mình, cảm nhận lo sợ - kinh hoảng y như sự kiện thật đang xảy ra trước mắt, tim đập thình thịch trong ngực... Cuộc phiêu lưu chấm dứt vẫn chưa thấy hoàn hồn! Lúc đó, tôi phải dùng lý trí của xác trần để “thay đổi cục diện” trong lúc hoàn toàn tỉnh thức, y như một người —chơi game trực tuyến” vậy!

    Đến lúc tôi thấy mình “thúc thủ” bèn dừng cuộc chơi, nhảy phóc lên giường. nhập xác!!

    Tôi được rèn luyện như vậy đó - các bạn thấy, có phải rằng: —thương cho roi cho vọt” hay không ?!

    Từ ngày con trai tôi mất đã gần bốn năm, chưa lúc nào lòng tôi nguôi thương nhớ . Bữa ăn nào cũng kêu, cũng gọi về - Đêm nằm nhớ con lệ đầm ướt gối!

    Hôm ấy, khi gọi con về ăn cơm, tôi thấy con đứng đó trần truồng, cái mặt nhâng nhâng như đối đầu, thách thức! Tôi hỏi thì cháu nói: “Con thích như vậy đó, Mẹ!” Đánh con không đành, tôi bỏ lên nhà trên, không nhìn nó nữa!

    Từ hôm ấy trở đi, thằng nhỏ vẫn về ăn cơm với bộ dạng ấy - Tôi giận, tôi ghét con, không thèm nói với nó tiếng nào! Con về ăn cơm là tôi bỏ lên nhà trên và từ ấy . tôi quên, không khóc vì con nữa!

    Nghĩ lại, tôi biết là do Bề Trên làm ra vậy để tôi nguôi không còn khóc thương con. —Thuốc đắng đã tật” phải không các bạn!

    Có một chuyện, tôi kể ra ai nghe cũng lắc đầu: — “Hết ý kiến!”

    Tôi nuôi một người tù (tội phạm kinh tế) suốt hai năm rưỡi trời, từ khi chưa biết mặt mũi ra sao!

    Có một người quen cho địa chỉ của tôi để G.V.Kh (tên người tù ấy) gửi thư về cho tôi xin sách báo cũ - Từ đó, cứ mỗi tháng tôi gởi lên một thùng hàng ... trong ấy có hầu hết các thứ cần thiết cho một con người: thuốc men, mì gói, đường sữa, quần áo, mùng mền, lương khô . phải nói là trăm thứ! Cuộc sống trong tù (ở trại Xuyên Mộc) khó khăn và thiếu thốn muôn bề, G.V.Kh viết thư về xin tiền hoài: một triệu, năm trăm, hai ba trăm là chuyện thường ...

    Nghe xin tới đâu, tôi vay mượn gởi cho tới đấy! Mặc dầu lúc ấy tôi vừa mới thôi chồng, nuôi ba đứa con nhỏ, nợ nần giăng mắc tứ phương…

    Mẹ Quán Âm nói: “tên G.V.Kh đó là một phần Linh căn bị đọa, con giúp cho hắn đi! Xem như làm chuyện ‘Phật sự” - Khi nào hắn mãn hạn tù, coi như Phật sự của con chấm dứt!

    Thế là tôi “cắm đầu cắm cổ” nuôi tù, lo lắng và chăm chút y như một người vợ có chồng đi tù vậy - Lòng dặn lòng: “ngày nào ông ấy mãn hạn cũng là ngày mình hết nghiệp”

    Một điều nghiệt ngã nữa: Thường xuyên chỉ vì một lý do rất nhỏ, anh ta viết thư về mắng tôi đến “vuốt mặt không kịp” - ví dụ: ‘Em gửi đồ cho anh mà giống như bố thí cho một thằng ăn mày ăn xin đầu đường xó chợ vậy!

    Gửi thuốc tây mà không có một dòng về công thức thuốc, bi ết làm sao mà sử dụng!” ... Vậy đó - mỗi lần như vậy tôi lại giận, thề không gửi đồ cho anh ta nữa! Phật Bà lại về bảo: “Ta muốn con cố gắng giúp cho người tù ấy - Bước thử thách trên đường Đạo của con đó!”. Thế là tôi lại tiếp tục ... Cứ nghĩ tới cảnh một tháng qua không nhận được “tiếp tế”, người tù ấy (và cả phòng giam) sẽ thiếu thốn và đáng thương lắm, thế là tôi lại còng lưng vay tiền góp hàng tháng mua đồ gửi lên trại!

    Đến một ngày - không còn chịu đựng nỗi những lời chì chiết vô cớ, tôi viết thư lên trại bảo mình chuyển nhà về quê ở, thế là thoát nghiệp - sau hai năm rưỡi tròn!

    Phật Bà hôm ấy về bảo tôi có mỗi một câu: “Con mới học được có một nửa chữ “Nhằn”!

    Người ở tù đã mãn hạn, có lên nhà tôi thăm một lần

    rồi thôi - như không hề quen biết! Phần tôi cũng quên không nhớ mình đã từng biết một người như thế trong đời

    Điển Ông bảo tôi viết lại hồi ký hai mươi ba năm qua, để lưu lại và truyền cho mọi người cùng đọc, xem như một bước “Hoằng Pháp” - Tôi nằn nì xin Ông cho tôi nghỉ chữa bệnh - nghỉ hẳn! Xem như —về hưu” sớm - Có vậy mới tĩnh tâm mà viết, bận suốt ngày thì làm được gì!

    Mẹ Quán Âm và Mẹ Diêu Trì không cho, phần Điển Ông thì bảo: Mẹ nói gì cứ im nghe đừng cãi - Để rồi ông thu xếp cho tôi, ông hứa!

    Thực vậy! Từ ngày bắt đầu cầm bút viết, bệnh nhân vãn dần, mỗi ngày còn chỉ độ mươi người, đa số là chữa qua điện thoại, không làm mất nhiều thời gian của tôi nữa.

    Mỗi khi viết - Ông nhập thần vào tâm thức tôi để giúp tôi nhớ lại những tình tiết của những vụ vi ệc đã qua (Hai mươi năm rồi còn gì) Lúc ấy đầu tôi căng lên như sắp vỡ, chóng mặt như người đang say sóng, viết xong buông bút - mãi còn nghe bần thần khó chịu trong người!

    Bệnh nhân không có, tôi phải chịu hành kiểu khác: ba ngón tay cầm bút ( nhất là ngón cái) cứ đau thắt từng cơn, phù nề và căng cứng, cảm giác vừa đau vừa tức thực là khó chịu!

    Đôi vai và cột sống cũng đau liên tục . tôi cứ ngồi đấy lì lợm, bậm môi mà viết - viết xong phải dựa tường mới đứng lên được, bước đi —cà nhắc” vì đau cứng khớp . Cực hình nầy nào có thua gì —chịu đau thế” cho người

    giải trình chắc chắn là Huyền Môn Lược Ký rồi!

    Đem thắc mắc của mình ra hỏi ông: —Địa Mẫu và nhà Phật, ai lớn hơn?” Ông bảo: ‘Ngọc Đế và Mẹ Diêu Trì lớn hơn. Không nghe Kinh Phật gọi “Cung trời Đạo Lợi, cung trời Đâu Suất” đó sao! Cõi Phật ở trong cõi trời, Cha Trời Mẹ Đất hóa sanh ra con người, con người có tu mới thành Phật”

    Hèn nào xưa nay nghe Ông luôn gọi: “Mẹ Diêu Trì” khác!

    Dạo đó - tôi mơ một giấc mơ “Điển ứng” như sau: bằng sự cung kính! Đó là nói với tôi - Khi Mẹ về, ông gọi:

    “Bà Diêu Trì” và xưng là “ta”!

    Tôi thấy có hai người một Nam một Nữ từ Mỹ về, thuê tôi vi ết một tập tài liệu gì đó để trình lên cấp trên! Tôi vừ a viết vừa làm giúp các việc lặt vặt trong nhà, vì nhà ấy neo đơn, chỉ có hai ông bà lão chừng độ tám mươi.

    Hôm ấy viết xong, người Nam chuẩn bị đem tập tài liệu ấy đi nộp trình lên trên, ông chỉ mặc một chiếc áo cũ kỹ - Tôi ngăn lại, lấy bộ đồ veston cho ông mặc! Xong mọi việc, tôi ra về - ngang qua phòng khách thấy ông cụ chủ nhà, ông gọi tôi lại móc túi cho một tờ năm trăm ngàn mới nguyên - nói: “Ông cho con, về để dành mà chi dụng!” Tôi không chịu, bảo: “con đã nhận tiền công rồi, con không lấy nữa đâu” . Cụ Bà bước ra, đứng sau lưng bóp vai ông, bảo: “Ông cho thì cứ nhận cho ông vui, đừng trả lại ông buồn!” Tôi cảm ơn, đút tờ tiền vào túi, về nhà lấy ra - tờ tiền ấy hóa ra một túi đầy tiền ...

    Tỉnh dậy - tôi nghiệm ra từ giấc mơ: Hai người nam nữ là con từ Mỹ về - chắc Ngài Thích Ca và Quán Thế Âm Bồ Tát! Ông Bà Cụ là Ngọc Đế và Mẹ Diêu Trì, tài liệu.

    Trên cho nghỉ chữa bệnh một thời gian, để viết Huyền Môn Lược Ký - lạ một điều là ngày nào tôi viết, ngày ấy không có bệnh nhân! Hôm nào tôi không viết, người bệnh lại kéo tới - Rõ ràng việc bệnh nhân có hay không, nhiều hay ít là do bề Trên sắp xếp! Sau khi hoàn tất tập một, tôi tự nhủ: ‘Nghỉ một thời gian “xả hơi” đã rồi lại viết tiếp”

    Thế là bệnh nhân lại kéo đến, tôi lại bị đòn y như cũ ... Cho rằng Ông gạt tôi và không giữ lời hứa của mình, tôi nhất định không đưa Huyền Môn Lược Ký đi trình để xin cấp Giấy phép xuất bản và tôi dọa với ông: —Nếu không cho tôi nghỉ chữa bệnh tôi sẽ đốt bỏ Huyền Môn Lược Ký! Ông chẳng nói chẳng rằng - May là bản thảo sách đang ở trong tay một người bạn, nếu không thì tôi đã đốt mất rồi! Mẹ Diêu Trì về thúc hối nhiều lần, tôi vẫn bướng bỉnh không nghe!

    Thực tế - tôi sợ Mẹ lắm, đâu dám cãi lời. Nhưng tôi nghĩ: —Nếu không dựa vào dịp nầy, chắc vĩnh cửu mình không trốn nghiệp được - Sách xuất bản ra, người ta kéo tới càng nhiều hơn . chắc chết! Thôi thì nhất định —án binh bất động” tới cùng, rồi Mẹ cũng chuyển ý thôi!”

    Tôi còn nằn nì —ra điều kiện” với Mẹ Quán Thế Âm: —xin Mẹ cho con bán nhà, mua một căn nhà khác nhỏ hơn để dư ra ít tiền mà sống! Rồi con sẽ về ở sau bốn vòng tường đến mãn đời, không bước ra ngoài xã hội nữa! .” Điều gì xảy ra, các bạn biết không! - Tôi bị một trận đòn thê thảm nhất trong vòng hai mươi ba năm nay, đưa tất cả bao nhiêu công khó dìm xuống bùn nhơ! Trong vòng chín tháng ( từ tháng giêng/2009 đến hết tháng 9) - Tôi kể lần lượt từng đợt một cho các bạn nghe nhé!

    Nguyên cháu KH (Người đã kể trong Huyền Môn Lược Ký I) mồ côi Mẹ, theo tôi từ lúc mười bốn, mười lăm tuổi đến giờ! Tôi rầy dạy từng lời ăn tiếng nói - Sau lấy chồng khác đạo, lại là gia đình trí thức, nhà cậu V không ai bằng lòng cô Kh (vì không còn cha mẹ, lại xuất thân từ gia đình quê nghèo, ít học)! Vì vậy, mặc dù được chồng thương yêu, chăm sóc nhưng bản tính của người chồng gia trưởng độc đoán - Gia đình bên chồng lại khó, cô Kh lấy chồng mười năm, đã nhiều lần không chịu đựng nổi đòi ly hôn ....

    Tôi hết lòng can gián, khuyên nhủ - Kh xem tôi như người Mẹ nuôi - nghe lời tôi khuyên lại trở về sống tiếp cùng chồng!

    Phần tôi - đã dùng hết tâm huyết của mình để hỗ trợ, xoay chuyển giúp hai vợ chồng vượt qua hoạn nạn, để mỗi ngày một ổn định hơn .

    Hai vợ chồng Kh hiện nay đầy đủ, khấm khá và hạnh phúc - Rồi cô Kh theo tôi học Nhân Điện phát sinh lòng mộ Đạo, đêm về hay đọc Kinh, ngày Vía lại ăn chay .

    Mâu thuẫn phát sinh từ đó!

    Do bị dồn nén cảm xúc, bị stress và suy nhược thần kinh, sau một lần vợ chồng cãi nhau rất dữ dội, độ chừng một tháng thì cô Kh bị “bệnh tâm thần” - đưa đi bệnh viện chữa không có tác dụng gì, lại đem về . Những ngày ấy, tôi thật khổ! Chồng cô Kh gọi điện suốt ngày cho tôi, trời nắng giữa trưa bất kể, tôi đạp xe ba cây số tới nhà - vừa chữa bệnh vừ a an ủi, tôi về cô Kh lại “lên cơn” tiếp!

    Tôi nhờ anh Ch (Huynh trưởng Nhân Điện) đến hỗ trợ, nghe Mẹ cậu V nói sao không biết, anh Ch triệt bàn thờ Phật Bà của Kh! Phần tôi, tôi nói với cậu V (chồng Kh): ‘Kh nó bị suy nhược thần kinh - từ nhỏ cứ đi nằm bệnh viện hoài! Nếu vợ chồng muốn sống hạnh phúc với nhau thì cậu đừng dồn ép, tra tấn tinh thần nó kiểu như vậy nữa. Nó có bề nào, ra trước tòa tôi sẽ khai hết mọi chuyện thì cậu sẽ bị câu lưu vì tội “bạo hành phụ nữ” đó!”

    Câu nói của tôi đã hại chính mình, gia đình cậu V sợ quá - ra sức đổ tội cho tôi! Họ cho người trong nhà đi rêu rao khắp vùng dưới chợ Hiệp Thành lên đến nhà tôi trên nầy, bảo : “Cô Lan làm thầy bùa thầy ngải, bỏ ng ải cho Kh mê, lấy hết tiền của trong nhà đem cho - còn đưa ngải cho Kh về bỏ cho mẹ chồng và chị chồng để lấy tiền đem cho cô Lan nữa”.

    Trong khi Kh đang lên cơn tâm thần, bỏ nhà đi lang thang thì họ đến khu nhà tôi ở ... Cậu V bồng con nhỏ đi rêu rao khắp nơi, với luận điệu mà họ đã dựng lên! Ngày nào cũng có hai, ba người tới vây cửa nhà tôi, hăm rằng hễ thấy Kh tới đây họ sẽ la lên, cho cả xóm tới trông thấy và làm nhục tôi! Cậu V tới cửa nhà tôi đứng chặn ngay giữa cửa, mặt đầy —sát khí” ... Hai mẹ con tôi chui trốn trong nhà, không dám lên tiếng nói .

    Cô Kh trong cơn tâm thần, tận cùng tâm thức vẫn thấy chỉ có cô là nơi chốn hướng về để mong được ủi an, che chở - lại tìm đến nhà tôi, tôi khóa kín c ửa rào, cô cháu kẻ trong người ngoài khóc ngất! ... Một thời gian sau, cô Kh tỉnh dần, đưa đơn ra tòa ly hôn với chồng! Chồng cô Kh dụ đưa vợ ra tận Long Thành Bà Rịa chuộc bùa, Tòa vừ a ký đơn cho ly hôn xong, cô Kh nghe lời chồng xóa quyết định ly hôn!

    Mọi việc xảy ra và kết thúc trong vòng ba tháng, tôi bị “tra tấn tinh thần” suốt ba tháng, chín mươi ngày ... xem như —ô danh xủ tiết” một đời - hai mươi ba năm hành Đạo, nghiệp quả lãnh thế nầy đây!

    Về sau mọi chuyện cũng nguôi khuây, tôi —cấm cửa” cháu Kh không cho tới nhà nữa, và từ ấy có thói quen khóa kín cửa rào, không ai dễ dàng bước vào nhà tôi như trước!

    Nghe đâu cô Kh kể là chồng đưa đi rất xa để chuộc bùa, ông thầy lấy roi dâu đánh đau lắm. Tội nghiệp! Ai bảo không chịu theo Đạo chồng. Không cam phận sống một đời sống bình thường như bao người khác ...

    Đời vốn nghịch thường như vậy: người ta đổ tội cho tôi là bỏ ngải, là dùng tà phép ... Để rồi người ta đưa vợ đi chuộc bùa, chuộc phép! Người ta có thể hại tôi đến “thất điên bát đảo” quên mất bao nhiêu năm tháng đã qua, mỗi chút trắc trở khó khăn hoạn nạn đều đến cầu cứu ở cô Lan, và chính từ tấm lòng của cô Lan mà họ được như ngày hôm nay ... Có trời biết điều gì sẽ xảy ra nếu hai vợ chồng Kh còn ở trong căn nhà cũ, căn nhà mà hoạn nạn và xui rủi như cơm bữa ấy ... Và liệu có một lúc nào đó, quay nhìn lại đời mình, cậu V có một chút ân hận vì đã “trả nghĩa” cho tôi như vậy không nhỉ!

    Một buổi chiều nọ, cô Tiến ở kế bên sang nhà tôi, hai chị em đứng ở cửa rào nói chuyện một chút, xong vào nhà, độ chừng mười phút sau trở ra tôi phát hiện một con cóc chết thật to nằm ngay giữa cổng rào, nơi hai chị em vừa đứng nói chuyện tức thì ... xem xét lại, tôi thấy con cóc đã chết từ lâu, đang trương phình lên, như có ai đó vừa lén mang đến đặt ở đấy, nơi hai chị em tôi đứng nói chuyện suốt mười phút mà không thấy!

    Tự nhiên trong tôi dâng lên một cảm giác lo sợ, bất an ... Kể từ hôm ấy trở đi, chuyện xui rủi như cơm bữa, mỗi ngày qua đều có chuyện bất thường nào đó làm tôi khóc đến hai ba lần - đa số đều là chuyện thị phi, “lộng giả thành chân”. Suốt hai tháng trời đều như vậy ... Mỗi ngày!! Tôi vốn không mê tín, vậy mà mỗi khi nhớ đến chuyện ấy, còn thấy rùng mình kinh sợ!

    Sau chuyện cô Kh, sau những tháng ngày khóc hết nước mắt: Khóc cả ngày, khóc cả đêm! Bề Trên quay lưng - im lặng, Điển Ông cũng chẳng thèm lên tiếng ... chẳng ai cứu được tôi, chẳng ai để tâm xem tôi đang phải chịu đựng những gì, đòn trừng phạt cứ giáng xuống!!

    Làm sao để rửa được nỗi oan nầy? Suy nghĩ mãi, tôi chấp nhận chuyển Huyền Môn Lược Ký tới Trung tâm Phát triển tiềm năng con người Hà Nội: “Chỉ có sự công nhận của Cơ quan chức trách nhà nước mới cứu được sự ô danh của mình” Tôi nghĩ thế!

    Về sau - Điển Ông bảo tôi bị đòn nặng nề như vậy là do cãi lời bề Trên, không chịu ra mắt Huyền Môn Lược Ký ... Quyển sách vẫn đi đúng con đường của nó, cho dù tôi không muốn. Còn tôi - những nhơ bợn trong đời biết trút vào đâu?!

    Chị M.H (là học viên Nhân Điện). Chồng chị trước là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 28.

    Ngày xưa anh bị thương ngay cột sống, giờ bị đau nhức tê bại đoạn thắt lưng trở xuống, liên tục phải điều trị bệnh viện 175 - bác sĩ Cự giới thiệu anh vào tôi, chữa cũng chỉ là đỡ giấc vậy thôi, không hết hẳn được ...

    Lần đầu tiên tới nhà, tôi đã thấy anh bị vây bởi rất nhiều vong hồn chiến sĩ (quân Cách Mạng) - Hỏi thì họ bảo: “Chúng tôi là lính của ông ấy”. Tôi hỏi anh: “ngày trước anh làm nghề gì” Đáp: “Giám đốc công ty Cao su” - đa số là chết oan, nên giờ họ theo níu anh - Khi anh còn khỏe mạnh họ không làm gì được, đến lúc anh đau bệnh, họ theo phá làm cho anh đau đớn nhiều hơn.”

    Sau một thời gian - đau bệnh vẫn cứ tăng rồi giảm, anh T không tới tôi nữa - bảo: “cô Lan người không thấy, thấy ma không hà!”

    Chị M.H - vợ của anh thì rất tin, đã theo học Nhân Điện ... Hiện nay chị đã học đến lớp 19, người mộ Đạo, phát triển tâm linh cao, thường xuyên đi Chùa, trì niệm và chay tịnh!

    Những người học Nhân Điện - một thời gian sau ( độ từ kho ảng lớp 11, 12 trở đi) dần dần đều trở nên trẻ trung, xinh đẹp hơn, da dẻ mịn màng hồng hào ra . Năng lượng vũ trụ chuyển luân trong toàn cơ thể là tố chất dưỡng nuôi, chuyển hóa làm cho ta ăn ít hơn mà vẫn khỏe mạnh, không thiếu dưỡng chất!

    Chị MH - từ một người đàn bà lầm lụi, buồn rầu và khổ sở, ăn mặc tạm bợ tùy tiện (vì vất vả nuôi chồng thường xuyên đau bệnh) trở nên một phụ nữ hồng hào, xinh đẹp, trẻ hẳn ra ... Thích quá, chị bắt đầu chỉnh chu lại quần áo, trang phục - Ra người phụ nữ trung niên —hấp.

    “Trước nữa” anh đáp: “Tiểu đoàn trưởng” - : “Hèn nào thấy vây chung quanh anh nhiều lính, họ khai là lính của dẫn”!

    Người chồng đau bệnh bắt đầu —nổi cơn ghen” nghi anh”.

    Anh T nói: “Tôi có giết hại ai đâu mà theo phá tôi” - vợ mình ra ngoài có tình riêng nên mới yêu đời và tươi trẻ thế kia! Nghe ai xui không biết ông mời “bà Thầy” nào đó.

    Điển nhập về, giải thích: “cho dù anh không trực tiếp giết người, nhưng chính anh là người ký lệnh hành quân, lính ra trận bị chết anh là người chịu trách nhiệm! Họ chết trận tới nhà án bùa chú, xem quẻ và phán bảo linh tinh đủ chuyện.

    Rồi ông tuyên bố: “Cô Lan mai mối cho bà, bây giờ bà có nhân tình ở xã Thới Tam Thôn, mua đất và cất nhà ở đó. Bà nói cho cô Lan biết, tôi sẽ làm đơn kiện cổ, cổ ra tòa mà đối chất với tôi”.

    Chị MH sợ quá, bảo tôi: “Cô đừng điện ra nhà chị nữa, rủi mà gặp ông ấy, ông chửi cô bất tử thì tội lắm”.

    Giờ - Chị em muốn thăm hỏi nhau, tôi phải nhờ người điện trước cho đến lúc gặp chị thì mới dám lên tiếng. Thêm một cú “đá giò lái” đau ơi là đau! Làm tôi mất ăn mất ngủ hết bao ngày.

    Cô T (học viên Nhân Điện) nhà ở kề bên tôi, (Người đã kể ở tập I) Ngày trước ốm yếu, xanh xao ... Từ ngày học Nhân Điện đến nay trở nên tròn trịa, hồng hào xinh đẹp! Cô T cũng phát sinh tâm Đạo, thích đi Chùa, niệm Phật nghe Kinh và ăn chay các ngày lễ, Vía Phật ...

    T chữa bệnh tốt lắm, vào xí nghiệp (nơi cô làm việc)

    T chữ a bệnh cho nhiều người - Ti ếng đồn lan tới tai chồng cô, lúc đó đang làm Trưởng ca ở đấy! Người chồng về nhà cấm không cho T chữa bệnh nữa, dẹp cả đầu máy không cho nghe Kinh pháp . Từ đó sinh lòng ác cảm với tôi! Cô T thì để cho “vẹn cả đôi đường” - khi chồng đi làm mới dám sang nhà tôi, đi Chùa, đọc Kinh hay chữa bệnh cũng phải dấu chồng!

    Đến một ngày (tháng 4/2009) cháu Minh (Học viên Nhân Điện) lên nhà mách với tôi: Chồng cô T về dưới Hiệp Thành (nơi mẹ và các em tôi đang ở) vẽ chuyện nói cô T qua nhà của tôi để “tò tí” với Minh (nguyên văn lời kể).

    Cô T nghe vậy ức quá về hỏi lại chồng! Người chồng làm lớn chuyện, nửa đêm chửi đổng miệt thị tôi vang cả xóm ... Xong lại về dưới Hiệp Thành đòi hỏi đối chứng nầy nọ lung tung, rồi lân la phân trần với hàng xóm láng giềng . Câu chuyện kéo dài độ ba bốn ngày - Dẫn đến sự tuyệt giao giữa tôi và chồng cô T, hai người ở sát vách nhà nhau!

    Thì ra cậu V (chồng cô Kh) đã đưa số điện thoại, nhờ cậu T báo cho biết nếu thấy Kh lên nhà tôi! Cậu T bảo: Cô Kh vì nghe lời tôi mà bị tôi bỏ ngải đến tâm thần, ly dị chồng - Cậu T sợ cô T theo tôi rồi cũng bị điên như vậy!

    Qua hai vụ vi ệc liên tục xảy ra, tôi bị mẹ và các em lên án thậm tệ - Dẫn đến chỗ tôi sinh ra phẫn uất, từ mẹ và cô em gái kế của mình .

    Chuyện qua đã lâu rồi, giờ viết lại vẫn còn nghe như muối xát kim châm - rõ là “lòng đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Nỗi oan này ai thấu, buồn hận l ấy gì đong! Chỉ vì không tuân theo ý muốn của bề Trên, tôi bị đòn đau đến vậy!

    Vẫn còn một chuyện nữa, tôi xin phép kể nốt cho trọn kiếp trần ai . mấy việc kéo dài ra, dàn trải trong suốt chín tháng trời ròng rã - từng ngày từng giờ vắt kiệt lực, dìm tôi xuống tận đáy của sự lo sợ, bất an, đớn đau và tủi nhục.

    Tôi là kẻ cô thế giữa cuộc đời này - không lấy một điểm tựa, chẳng có ai che chở dìu đỡ ... Bước xiêu ngã một mình, giông tố loạn cuồng chẳng biết tránh vào đâu. Nhút nhát, rụt rè đến nỗi lúc nửa đêm, trong căn nhà vắng - chỉ một tiếng động khẽ ngoài sân cũng nghe như tim ngừng đập - Một con gián, con thạch sùng hay chú chuột nhắt chạy qua cũng “hồn phi phách tán” mất rồi! Vậy mà bề Trên giao cho một trách nhiệm trọng đại đến thế ... Kể cũng lạ! Cây “Thượ ng phương bảo kiếm” vào tay một con cừu đội lốt cọp suốt mấy mươi năm chưa chán . Cái gánh nặng quá sức ấy choàng lên vai, khiến tôi cứ rùn xuống, chịu đựng, như một kẻ bị lưu đày suốt kiếp - chẳng biết bao giờ mới mãn hạn!

    Cô H (là học viên Nhân Điện) - Suốt ba năm từ lúc bắt đầu dạy cho H học cách chữa bệnh và khai mở Luân xa

    Tôi vẫn có một nỗi lo lắng mơ hồ, mãi chẳng nguôi khuây .

    Biết trong cô còn nhiều tà khí, thầy chỉ cho cô H lên đến lớp mười lăm rồi thôi - vài lần tôi và H xin, thầy cứ dần dà, chưa chuẩn!

    Một ngày - nhà tôi nấu cơm cúng rằm, chị em tụ nhau về ... H đứng bếp nấu món ăn xong, chiều ấy mọi người về cả, tôi mới hay bếp gas bị hư - mua bếp gas mới mất bốn trăm ngàn!

    Lần nữa - H lên nhà nhận Điện (mỗi tuần vào ngày chủ nhật, chị em Nhân Điện nhánh của chúng tôi tập trung ở nhà tôi để nhận Điện thầy) - trong đó có năm anh chị từ phía của câu lạc bộ Tiềm năng Sài gòn lên học! Các anh chị mới vào lớp sau, tài liệu theo cấp lớp của tôi lưu lạc đâu mất tìm mãi không ra ...

    Tôi điện cho A Ch (Huynh trưởng) hỏi! A. Ch bảo H có, bảo H đưa cho mượn - Đang lúc bấn lên tôi trách: “con đó! trong lúc cô chạy tìm mãi không ra, con có tài liệu mà không cho cô mượn” - Cô H phân trần một hồi . xảy đến việc cô Hà (học viên Nhân Điện) cầm điện thoại di động của tôi mở ra xem, cô H ngồi đối diện ngước nhìn . tự dưng cô Hà phát hiện ra thẻ nhớ của điện thoại bị xóa trắng, mất tất cả - không còn một dữ liệu nào!

    Ngay buổi chiều hôm ấy, tôi bị “tà đánh” - nằm nghỉ trưa độ hơn nửa tiếng, tôi ngồi dậy đã thấy cả người nhừ nhẫn, đầu đau như búa bổ . Đứng lên soi gương chải tóc, tự dưng sau lưng nghe “rầm” một tiếng lớn, chiếc quạt máy đang quay bị gãy cánh quạt, văng tứ tung! Nhìn lại, tôi thấy lạ - vì cánh quạt không bị sút ra, hai vòng nhựa xiết bên trong và bên ngoài hãy còn nguyên, cánh quạt tôi mới mua chưa đầy hai tháng bị gãy nát làm ba miếng, văng tứ tung trong nhà .

    Lát sau, tôi đang cầm chiếc bình hoa trong tay, nghe có ai đó hất vào tay một cái, bình hoa rơi vỡ tan tành!

    Tối đêm đó - tôi bị dị ứng, khắp cả người nổi lên từng dề màu đỏ hồng, nổi gồ lên khỏi da, ngứa dữ. Khi bề mặt của da bị dị ứng gần hết thì tôi bị bế tim phổi và khó thở. Bị suốt ba ngày, ba đêm như vậy - thuốc uống vào chẳng có tác dụng gì . Đến chiều ngày thứ ba, tôi sinh nghi, thắp hương trên bàn thờ Phật để xin Điển trên về hỏi cho ra lẽ!

    Ngay lúc đó, Cô T chạy sang nói : ‘Em bị tà đánh hai ngày nay, xin Điển bắt ra mười ba Binh Gia. Em bắt họ dẫn về nhà Chủ, họ đưa đi loanh quanh một hồi vào một căn nhà nhỏ nằm sau một khoảng đất rộng. Em xin cho gặp Chủ thì thấy .. Chị H - sao lạ quá, chị hỏi lại Điển xem sao, em đâu có làm gì cho H ghét, sao H lại đánh em!”

    Tôi điều tra lại, phần tôi bị đánh cũng do cô H ... Có lẽ ức vì bị tôi rầy H giữa tập thể nên mới cho binh phép đánh tôi! Còn cô T? Hôm chủ nhật ấy cô T không có mặt, tại sao bị đánh? Suy nghĩ lại, tôi vỡ lẽ: “À! Bởi vì cô T là người học lớp cao nhất trong tất cả chị em!”

    Sang ngày hôm sau, cháu Minh lại chạy sang tôi: “Cô xem dùm con coi có phải bị tà đánh hay không mà bị đau nhừ hai ngày nay rồi” - Tôi hết xin Điển về ứng báo, lại sử dụng quả lắc Nhân Điện, kết quả cũng đều báo là Minh bị

    Lan nghe nói thấy chuyện quan trọng, không dám dấu, phải nói với tôi để tôi tìm cách xử lý.

    Tôi nghe qua cũng ngẩn ngơ - vì mình chưa hề biết hay nghe chuyện nầy bao giờ ... Sau này xâu chuỗi lại các sự vi ệc, tôi mới biết lúc ấy H đang tìm số điện thoại của những chị em Nhân Điện học lớp cao để đưa tà phép đánh.

    Chiều ấy cô Lan không trúng đòn, không bị gì là do tôi vừa xin phép Thầy Tổ và các Đấng “khóa Luân xa” của cô

    cô H cho binh đánh! Sau khi giải binh, cô T và cháu Minh hết ngay, còn tôi sau ba ngày bị dị ứng dồn dập rồi cũng

    H!

    Khi điều tra sự vi ệc, biết do chính tay H đưa tà phép hết!

    Nhớ câu nói người xưa: “Đạo cao một tấc, tà cao một trượng” - Tôi bắt đầu rùng mình, lo sợ. Cô H vốn là học trò của mình, ra vào nhà như người thân ... H mà dùng tà phép thư ếm thì mình chết mất. Lại nhớ ngày xưa thỉnh thoảng có đọc truyện “kiếm hiệp” - nghe kể những người là —phản đồ”, quay lại hại chết chính sư phụ của mình ...

    Người thầy chết oan vì tin lầm kẻ dữ!

    Ngặt nỗi chuyện tà phép là chuyện không thể “thực mục sở thị” - Cô H bề ngoài vẫn ngoan ngoãn, thơn thớt nói cười... Lấy gì bắt tội được cổ!

    Ngay hôm sau - cô Lan (học viên Nhân Điện) kể với tôi một chuyện: “Chị H điện lên em, hỏi số điện thoại của cô NT, còn dặn là đừng nói lại cho cô Lan biết! H kể: “Cô Lan xuống chợ Hiệp Thành nói xấu tôi - nói là tôi đi theo năn nỉ cô Năm để xin tiền và cô Năm cho tôi năm triệu!

    Chồng tôi nghe vậy về đánh tôi . Tôi muốn điện cho cô NT để hỏi cho ra lẽ” đánh tôi, cô T và cháu Minh. Để đề phòng - tôi đã xin phép “khóa Luân xa” của H lại. Đây cũng chỉ là phương cách tạm thời - vì cô H rất cao tay, trên H còn có Thầy tổ, Nghiệp tổ, có Âm căn nữa!

    Buổi trưa tôi vừa khóa luân xa, chiều tối H điện thoại

    cho Lan đưa phép đánh - vì vậy mà Lan không bị “trúng đòn” ... Hai ngày liên tiếp, tôi vẫn bị đánh “nhừ tử” - ngạc nhiên quá, chẳng lẽ mình điều tra sai, kết tội oan cho H? Luân xa đã bị khóa, bàn tay phép bị phá luôn rồi, H không thể đánh mình được nữa - Thế thì ai? Cả cô T cũng bị y như tôi!

    Tôi xin Điển cho kiểm tra lại, mời ra một ông Đạo sĩ mặc áo chùng oai vệ, ra vẻ một bậc lão ông “đạo cao đức trọng”. Ông xác nhận đã đánh tôi, vì tội hiếp đáp đệ tử của ông là cô H . Tôi kiên nhẫn trình bày với ông mọi chuyện và kết: “Nếu ngài có một người đệ tử mà mình đã hết lòng truyền dạy không công, giờ trở lại hại mình như vậy - Ngài sẽ xử trí thế nào, thưa Ngài!”. Lão ông ấy không nói gì, đứng dậy ra đi. Tôi gọi lại: “Ông đi đâu vậy, thưa ông”, đáp: “Tôi về trừng phạt con H” - :“ổng giải phép giúp dùm chị em chúng tôi với”. Ông quay lại, phẩy tay một cái - tôi và cô T hết đau ngay tức thì!

    Phải công nhận là tà phép đáng sợ thật. Chị em chúng tôi chưa từng đưa phép đánh ai bao giờ, nếu có chắc cũng không làm được vậy.

    Hôm sau nữa - tôi điện gọi cô H lên nhà, nhờ T sang làm chứng. Khi tôi hỏi, H kể chuyện vòng vo - một câu chuyện ai nghe qua cũng cho là vô lý. H kể: “Chồng con vào một quán nào đó ở chợ Hiệp Thành uống cà phê, gặp một người thanh niên lạ mặt tới nói: “Anh có phúc trúng số độc đắc rồi. Vợ anh vừa xin được của bà tỷ phú (Người lên nhà cô Lan chữa bệnh) năm triệu - Chồng con nghe vậy về nhà đánh mắng con”. Tôi hỏi: ‘Người nói là ai?” - Đáp: ‘Người không quen biết”. Hỏi: ‘Họ làm sao biết chuyện?” Hương lại kể: “Sáng hôm sau con ra chợ bán rau, ông ấy lại tới chỉ mặt con mà bảo: “Cô không biết giữ sĩ di ện của mình, đi xin tiền người khác. Vợ tôi lên nhà cô Lan chữa bệnh (mà cô Lan chữa đâu có hết - Giờ tôi đưa vợ đi nằm bệnh viện rồi). Chính cô Lan kể với vợ chồng tôi là cô năn nỉ xin tiền bà tỷ phú, bà ấy cho cô năm triệu”.

    Trước mặt H tôi điện cho mời chồng cô lên đối chứng, chồng H chối bảo là mình không có nói như vậy, và xin lỗi tôi ...

    H nói: “Mấy hôm nay con bị bế luân xa, thiền không nhận được điện, con đang buồn nên cũng không nhờ cô khai thông lại cho con”. Nghe H nói, tôi mới biết mình đã khóa luân xa được rồi, nhờ vậy mà H không đánh được Lan và chị NT.

    Thấy cũng cần cho cô bé kiêu ngạo nầy một bài học, tôi nói: “Con là học trò của cô, con không thể ngồi ngang hàng với cô. Cô là cô của con, cô cũng không xuống ngồi ngang với con, có phải không? Thế mà con đã bao lần nói những điều sai oan cho cô - Điển báo cho cô biết tất! Nhưng cô vẫn tha thứ cho con, mong con biết “cải tà quy chính”, cô đã hết lòng khuyên con rồi, giờ đến chuyện này

    những điều đơm đặt cô không hề biết mà con cũng gán được cho cô là sao? Thôi từ nay cứ ở nhà mà luyện Điện, đừng lên đây nữa .”

    Sau khi H về, tôi vào giường nằm nghỉ trưa hơn nửa giờ, thức dậy phát hiện ra ở hai bên bắp vế chân nổi lên từng dề như bệnh zonar (giời leo) - nóng, đỏ và rát. Chữ a liên tục mỗi ngày ba lần, cầm cự bệnh không tăng nhưng vẫn không chịu hết - tôi sanh nghi, nhờ cô T qua xin Điển hỏi, thì ra bị cô H bỏ ngải.

    Chúng tôi không chủ quan khi xét việc, vấn đề nào quan trọng tôi nhờ hai hoặc ba chị em tự xin Điển về hỏi, xong đối chứng lại lấy kết quả chung.

    Là người hành xử, nghi ngờ oan hoặc xét sai việc dẫn đến xử oan, tội nầy không phải nhỏ. Chuyện Cô H, tôi đã nhờ ba, bốn chị em - kết quả đều chính xác như nhau!

    Một tháng sau, H mang lên một túi trái cây cúng Phật ngày rằm và xin lỗi tôi. Tôi cũng không chấp nhặt gì, ngồi nói chuyện cùng H gần một giờ, khi vào nghỉ trưa một lúc thức dậy - tôi thấy những vết zona ở hai bên bắp chân lại mưng lên như cũ. (Vốn đã hết từ lâu, không còn chứng tích). Không còn nghi ngờ gì, tôi đành điện cho H nói thẳng: “Con đừng lên nhà cô nữa. Con lên cô bị tà đánh hoài cô chết mất. Cô còn nhiều chuyện phải làm, đau đớn vầy cô sẽ không làm được gì, tội cho bao người bệnh còn đang chờ cô kia”. Có thế - Tôi mới thoát được H!

    Những chuyện thị phi kéo dài trong suốt chín tháng tròn, liên tục mỗi ngày ... Chín tháng nỗi đau dài tưởng chừng bằng cả một đời người!

    Rồi dâu bể cũng qua - Sóng lặng bể yên, mặt trời hồng rạng tỏ. Còn lại nỗi đau của cát, bị gót chân đời vùi dập tận lòng sâu. ..

    Huyền Môn Lược Ký được công nhận! Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác (Chủ nhiệm bộ môn Cận Tâm Lý - Trung tâm phát triển Tiềm năng con người Hà Nội) điện vào cho Câu lạc bộ tiềm năng Hồ Chí Minh, nhờ anh Nguyễn Tư (là phó chủ nhiệm phụ trách ở phía Nam) liên hệ tiếp xúc với tôi .

    + Anh Tư đưa người của trung tâm Tiềm năng Hà Nội vào “thực nghiệm”.

    + Anh Tư giới thiệu nhiều người đến nhà tôi, kết quả đáng khích lệ!

    + Ngày Ông Nguyễn Chu Phác gọi tôi ra Hà Nội họp Đại Hội Tiềm Năng của cả nước, tôi trốn!

    + Ngày 20 tháng 9/2009 Hội thảo Khoa Học về Tâm Linh toàn nước, tổ chức tại hội trường Viện Bảo Tàng Quân Khu 7, Tôi đã được vinh hạnh nhận giấy mời do Giám Đốc Đào Vọng Đức và Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác ký.

    + Bài Tham Luận của tôi được Trung tâm đánh giá là một trong bốn bài “có chất lượng” trong buổi hội thảo.

    + Tôi được câu lạc bộ Tiềm năng Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị quay phim - nhưng tôi cũng trốn.

    + Ông Chu Phác bảo: Huyền Môn Lược Ký nên để sang năm 2010, có điều kiện mới xuất bản được. Nghị quyết 27 của Đại hội Đảng trong năm 2009 không được xuất bản các loại sách về tâm linh ...

    Đại khái là như vậy! “Cá vượt vũ môn” hóa cá - Tôi trốn biệt, đâu dám chường mặt ra đám đông.

    Mấy chục năm trời làm ngọn cỏ vô danh nay cho dẫu “thấm nhuần ơn mưa móc” - vẫn chẳng thể hóa thành đại thụ ... càng muốn lặn sâu, trốn kỹ hơn vì sợ ... trúng phải gió độc của Tà môn!

    Úp mở một tí cho câu chuyện thêm phần hứ ng thú, tôi sẽ trình với các bạn đọc bài Tham luận tại buổi Hội thảo Khoa Học ngày 20/09 ở .... “tập 3 Huyền Môn Lược Ký!”

    THỰC HÀNH CỤ THỂ (13)

    Chị NT (người tôi đã kể vào tập I), duyên lành xui tôi gặp chị, cũng là duyên lành khi chị gặp tôi . Chị bắt đầu hướng theo Chánh pháp, đi vào đường Đạo từ đó!

    Mới tròn một năm mà chuyện kể về chị đã dài bằng một bản trường ca. Ngày đầu tiên chị đến nhà tôi - Mẹ

    Diêu Trì đã về nói chuyện Đạo, chuyện đời cho chị nghe, và cũng gần như ngay lập tức chị Giác ngộ! Nhớ lời Mẹ nói: ‘Phần hành nào đưa về cửa ấy.” Chị NT cũng đã vài lần đặt lòng tin vào đâu đó, sau thấy chưa mãn nguyện lại rời bỏ ra đi - cho đến một ngày ...

    Tôi xin Điển soi căn, tìm ra phần Linh căn của chị là một Thánh nữ cao - Đệ tử ruột của Mẹ Lê Sơn. Hèn nào từ ấy về sau, mọi hoạn nạn của chị đều có bàn tay Mẹ chuyển dời.

    Hôm đó, khi phần Linh căn của chị về, tôi nhìn thấy, biết ngay là bị đọa trần. Khi tôi hỏi lý do, Mẹ Diêu Trì quay lưng, giở áo cô ấy cho tôi xem: những vết roi chồng chéo, đan xen thành sẹo: sẹo lớn, sẹo nhỏ, phần thịt như một mảnh đất bị cày xới loang lỗ, trông thấy mà “nát ruột”.

    Mẹ nói là chị không có tội, nhưng vì bị chồng đánh đập dã man, chị sinh lòng phẫn hận, nên cứ đọa trần hoài...

    Mẹ Diêu Trì thương chị lắm! Trong suốt sáu năm về ở chỗ tôi, chỉ có hai người được Mẹ đích thân tìm về không đợi cầu kiến là ông H.A (đứa con trần xác của Mẹ) và chị NT - Người đệ tử bất hạnh của Mẹ Lê Sơn!

    Chị như là người chị tựa nương của tôi và cũng là —gánh nợ”. Mỗi lần chị lên là có chuyện cho tôi làm, mà chị lên thường lắm...

    Chị nôn nao, háo hức, vội vã để làm chuyện công đức - cứ như sợ không kịp tháng, kịp ngày. Những người và chuyện chị đưa tới đều nặng nề, khó giải. Tôi “bị đòn” mệt xỉu - Còn chị, nghe tôi bệnh là chạy lên, đem các thứ chất đầy tủ lạnh để tôi ăn cho có sức mà chịu đòn ... Rồi dọn quét, rồi nấu nướng thay tôi!

    Lần nọ, chị bị đau cổ, mỏi bại hai vai - Tôi chẩn thấy do bị Cửu Huyền hành, tôi có hứa để từ từ rồi xin giải nghiệp Cửu Huyền cho chị.

    Thường các âm phần họ nhạy lắm - có ai tới nhà tôi vài lần, bắt đầu giác ngộ đường Đạo là họ bám theo, ra mặt để cầu xin được cứu! Nhất là Cửu Huyền, hết phần nầy tới phần khác . Các chị em Nhân Điện khi học xong lớp 5.2, bắt đầu phát triển tâm linh - Bước đầu tiên là trả nghiệp Cửu Huyền.

    Trưa hôm sau, tôi nằm nghỉ trưa - Đang nửa mê nửa tỉnh bỗng thấy trôi vào một giấc mơ lạ: tôi thấy mình giúp chị NT cải táng phần mộ ông bà Cửu tộc, đào lên chỉ thấy hai, ba bộ xương người, còn lại toàn xương heo với chó .

    Tôi hỏi, chị NT trả lời: “Đó là những người ngày xư a có công với ông bà, chết rồi được táng chung trong phần mộ Cửu Huyền”

    Trưa - mệt quá tôi leo lên gác nhà chị nằm nghỉ, nấu cơm xong chị NT gọi tôi xuống ăn cơm. Lúc đó cả người tôi đau nhừ tử, không thể trở dậy được nữa . Cố lết tới cầu thang, tôi không dám leo xuống vì sợ sẽ té từ trên cao xuống. Chị NT lại gọi, tôi đành trả lời: ‘Em đau quá, không đi được nữa rồi”. Đến đó, tôi tỉnh dậy .

    Vừa trở mình, tôi thấy quả thực là mình đang đau y như vậy - trên giường ... Tôi biết chuyện nầy không phải nhỏ!

    Chị NT lên lần nữa - tôi điều tra ra hai ông Thần Tổ nghiệp với một trăm hai mươi Binh gia hồn xiêu phách lạc đói rét lang thang tự bao đời bao kiếp rồi chẳng biết ...

    Hai vị Thần Tổ nghiệp xin chiêu đãi binh gia, để họ đói họ quậy phá, trong tộc Tổ phát sinh loạn động, nạn tai dồn dập, tội nghiệp cho con cháu đời sau. Thế nhưng họ nhất định không cho “Giải giáp binh gia” ... Mãi đến gần một năm sau, họ mới tự nguyện cho Giải Binh - đưa hai Thần nghiệp Tổ về nhà thờ Họ.

    Chị NT dạo ấy đã học Nhân Điện đến lớp mười ba, nhưng vì cảm nhận ít, chị hay thiếu tự tin - Chuyện gì cũng chạy lên tìm tôi ... Giống y cô Lan (học viên Nhân Điện) - hai người cứ như một sứ giả phần âm, các âm vong níu chị để chị đưa lên tôi xin cứu.

    Có lần - chị nghe ứng báo liên tục từ khoảng luân xa ba trở xuống. Thường người học viên Nhân Điện sẽ nghe phần âm báo bằng cách khều móc nhẹ trên người hoặc co giật, đau nhói cơ bắp: từ luân xa ba trở xuống là phần âm bên ngoài - cấp thấp. Từ luân xa bốn trở lên là phần âm Cửu huyền, khi họ ứng về ta sẽ nghe đau mỏi, tê bại hoặc đau cứng phần cổ và vai - Tà cao sẽ làm ta ớn lạnh từng hồi dọc sống lưng và “nổi da gà” từng đợt trên người!

    Chị NT đếm cả thảy mười ba đợt, ứng báo có mười ba phần âm - Chị bảo: “Để từ từ đừng có níu tôi nữa, để tôi nấu cơm xong sẽ kêu cô Lan giúp cho” ... Thế mà họ vẫn cứ khều móc liên tục làm chị NT lo lắng, phải điện cho tôi!

    Tôi cho xếp hàng mà đếm - cả thảy mười ba đứa trẻ. Chúng khai là các phần Linh căn trốn đi chơi, giờ bị Trên bắt đi đày ở “Nhà mở Hòa Bình” ... Tên một cơ sở, địa điểm hoàn toàn xa lạ với chúng tôi!

    Lúc đó tôi đang có khách, đành hẹn ba giờ chiều sẽ tiếp xúc với chúng sau. Lũ trẻ lại trở về khều móc chị NT liên tục ... Hơn hai giờ, tôi thấy có bảy đứa trẻ chơi giỡn lăng xăng ngoài sân nhà tôi, còn lại sáu đứa vẫn gác dưới nhà chị NT, theo khều chị liên tục suốt từ sáng đến giờ.

    Lũ trẻ con tuổi đều trạc bảy, tám đến mười - Đứa nào cũng mặt mũi xinh xắn khôi ngô, mặc trên người bộ bà ba trẻ con tay dài, quần ống rộng màu khói nhang hoặc màu trắng, tướng vui tươi hớn hở, thông minh và láu lỉnh, trông dễ thương hết sức!

    Ba giờ chiều chị NT lên nhà - chúng tôi mua bánh trái cho chúng ăn và xin Mẹ cho đưa về núi tu tập. Mẹ Diêu Trì về mang chúng đi, chị NT cứu được mười ba phần vong trẻ thơ xiêu lạc .

    Lệnh Trên rất nghiêm khắc. Làm sai phải tội đi đày, ngoan ngoãn chịu tội một thời gian rồi phần nào khôn thì đi tìm nơi ứng cứu. Bề Trên có tha thứ hay không còn do các phần có ý thức chịu đựng và không gây nên nghiệp quả mới, nếu có thì đừng hòng được cứu!

    Cõi trên, cõi Địa ngục hay trần thế đều như nhau: có Luật pháp thì cũng có cách ứng cứu, lách luật - Giống như người Luật sư khéo biện hộ sẽ cứu được người bị sai oan. Có điều phải khôn khéo mà xử trí, sao cho “hợp lý hợp tình” .

    Lại một ngày nọ - Chị NT nghe các âm vong khều móc liên tục, chạy lên tôi. Điều tra ra bốn mươi tám âm vong và hai vị chúa quỷ canh nghĩa trang gần nhà chị NT!

    Kế hoạch chỉnh trang đô thị xóa các nghĩa trang, di dời các phần mộ, nhưng các âm vong ở đấy thì đâu ai biết mà di dời ... Họ cứ ở tại chỗ, trôi dạt đầu hè góc phố khổ sở lang thang, gá ở lén lút nhà người nầy, người nọ.

    Chị NT xác nhận điều ấy đúng - vì khi chị mua đất cất nhà có gặp xương cốt người chôn đã lâu, và nghe nói.

    Rồi đến âm vong người chồng cũ của chị NT. Cha của hai đứa con gái - dù ông đã có cuộc sống khác ... Khi chết đi, chị NT vẫn thỉnh Linh vị về thờ tại nhà: “Cho các con được vui” (lời chị NT)

    Khi mời CMT (tên người chồng cũ) về, tôi thấy có hai vong trẻ con nắm tay ông, đứa trai đứa gái! Khi biết đó là con của người vợ sau, chị NT không vui: “Tại sao anh mang con người khác vào nhà.” Ông cúi đầu: “Đó là nghiệp chướng, nó theo níu kéo đấy thôi.”

    Phần âm CMT không vào nhà được, đứng ở ngoài cửa - hỏi ra thì chưa đủ lễ rước vong ... Tôi bày cho chị NT về cúng xin phép Cửu huyền, ông CMT từ ấy mới được về ở trong nhà - một thời gian sau nữa Mẹ cho đưa vong hai đứa bé đi đầu thai. Từ đó, mỗi khi chị NT lên nhà tôi, hồn CMT lại về ra mặt chào hỏi, cười rất tươi, không còn buồn như trước, cũng không còn hai —gánh nợ” hai bên vùng chị ở xư a kia có nghĩa trang - sau nhà nước lấy cốt dời đi .

    Lại một lần chị NT lên nhà, nhờ tôi hỏi tìm âm

    Tôi hỏi: “Giờ các người muốn chuyển về đâu?”. Vị Chúa Quỷ trông coi nghĩa trang nói : ‘Xin cho chúng tôi chuyển về nghĩa trang Bình Dương - ở đấy đất còn rộng, các nghĩa trang ở trong thành phố nầy đều chật cả rồi”.

    Chúng tôi lại xin bề Trên chuẩn cho chuyển năm mươi vong về nghĩa trang Bình Dương - Cung cấp cho họ tiền bạc và lộc thực, xong phải chuyển thần thức tới nghĩa trang Bình Dương xin phép các vị Thần đất đai và các vị Chúa Quỷ canh nghĩa trang cho chuyển năm mươi âm vong về đó - Thế là xong! vong một người bạn thân: một nhà Thơ - người khi còn sống có tài, đạo đức và đặc biệt là làm thơ rất hay!

    Vong người ấy về - bảo mình là một Đạo sĩ xuống trần để tu tập, nhiệm vụ chưa tròn thì bị chết oan . Chị NT cũng nhận cái chết của người ấy ai cũng bảo là chết oan hoặc chết chưa đúng số!

    Anh em gắn bó với nhau lắm, lần nào mời vong về, nói chuyện một chốc là ai cũng khóc (vong nhập vào tôi - tôi khóc, chị NT cũng khóc)

    về sau - chị NT đưa một người em họ, một người bạn vong niên và người cháu họ của nhà Thơ ấy (xin phép được dấu tên). Hồn nhà Thơ về nói chuyện với từng người một ... Người bạn vong niên hỏi: “Thế có nhớ kỷ ni ệm nào về tôi không”. Vong bảo: “Tôi còn nợ anh chung rượu từ bi ệt trước Linh sàng”. Người bạn lớn tuổi khóc, nhận là có đổ chung rượu từ biệt trước linh sàng để tiễn người ra đi.

    Chiều hôm sau - tại Hội quán Gia Định họp mặt những người bạn thơ. Có cả tôi, chị NT cùng ba người anh em bạn ngày hôm qua!

    Trừ tôi ra, những người trong tiệc ấy đều là bè bạn thân tình của nhà Thơ quá cố.

    Tiệc khai mạc - tôi thấy vong nhà Thơ mở cửa phòng bước vào, đứng sau lưng người bạn vong niên. Tự dưng - như hồn nhập xác - Nhà thơ lão thành ấy luôn miệng nhắc lại những kỷ niệm xưa khi người bạn còn sống ... Rượu chưa uống mà say, kể lan man - thoắt cười, thoắt khóc rất lạ!

    Tôi lại thấy ba tôi mở cửa bước vào. Khi còn sống, ba tôi cũng là bạn thơ của vài người trong nhóm.

    Tôi ngồi đó - lơ mơ giữa cái thực và ảo, lòng nghẹn đắng. Những người thân đã chết, hồn về phảng phất bên ta, vay chút nghĩa tình xưa, tìm chút dư vị cũ. Người còn sống có hay đâu - cuộc vui cứ râm ran: cụng ly và nâng cốc, mấy ai nhớ tưởng, đoái hoài!

    Tôi nói với chị NT - cả hai chị em cùng khóc, giọt lệ âm thầm rơi vào đáy ly buồn!

    Đêm đó - tôi làm một bài thơ, xin chép lại đây tặng các bạn: VỌNG ẢO

    Ngọn gió thiên thu lướt vội vàng Tiệc tàn chưa nhỉ - tiệc chưa tàn!

    Rượu nồng chưa nhắp, say nào trọn Chén đắng còn nguyên - mộng lỡ làng...

    Bạn ở phương nào, ta ở đây!

    Cố nhân người hỡi - trách gì ai Âm dương cách trở, hồn như gió Về với đêm trường... với cuộc say!

    Khóe mắt nào cay buổi hợp đoàn Trời còn mưa nữa - gió đừng sang Lòng lạnh... biết làm sao để ấm Chếnh choáng men cay, chếnh choáng buồn.

    Rượu tiễn - sầu đưa với rã tay

    Tìm trong ảo ảnh chút hồn say

    Đêm này đêm nữa... đêm nào dứt Mộng - mộng trường canh, giấc đọa đày!!

    MUÔN DẶM ĐƯỜNG ... “TU”:

    Theo quan niệm của riêng mình - tôi nghĩ: Tu không hẳn là thí phát quy y, trường chay vọng đạo ... Tu có nghĩa là sữa chữa, là trau dồi tâm đức cho mỗi ngày một tốt đẹp, thanh cao và tròn vẹn hơn!

    Chân lý chỉ có một - nhưng con đường đi đến Chân lý thì có hàng ngàn ... Quả là “Muôn dặm đường Tu”.

    Mạnh ai nấy dấn bước, ra đi và tìm kiếm - Đi một mình hay đi thành từng đoàn, từng nhóm. Có người “chân trần gót mỏng” chậm rãi lần bước, có người dùng dao rựa tỉa cây phát cành - Có người nhặt sỏi đá, gai góc dọn đường - Lại có người lướt nhanh bằng đôi hia bảy dặm ...

    Có người dấn bước vì tò mò háo hức muốn lập tức được nhìn thấy, nhận chân sự huyền nhiệm mà mọi người từng truyền tụng - nhỏ to sang tai hoặc rầm rầm rộ rộ trên các phương tiện đại chúng công khai . Có người hối hả mà dấn bước, bịt mắt che tai để không bị phân tâm, giống như chú ngựa kia bị che hàm thiếc để chỉ “thẳng một đường dông”. Có người “dóng trống, phất cờ”, với hàng loạt những giáo điều, biểu ngữ, băng rôn . những tập thể lớn mạnh như thế dễ kéo theo đàng sau nhiều kẻ hi ếu kỳ - còn chuyện đi đến đâu thì . chưa biết!

    Giống như người “Sơn Đông mãi võ” kia, tụ tập được đông người vây quanh mình bởi tài quảng cáo, thực chất chưa biết ra sao - có khi “tiền mất tật mang” - Lúc quay nhìn lại thì đã trót phí hoài bao nhiêu ngày tháng lạc nẻo sai đường. Đứng lại bên chiều, chân chồn gối mỏi, ngơ ngẩn nhìn mọi người ruỗi bước đi qua ...

    Xã hội đang thời loạn động, “thay da đổi thịt từng ngày” - Thấy người đi, ta cũng phải đi theo, người chạy ta cũng lên gân mà chạy . thậm chí ước như cánh chim bằng kia lướt gió tung mây, để nhìn xuống dưới chân mình mọi người bé như ngọn cỏ!

    Theo tôi những giây phút thăng hoa, thành tựu thường kết tinh ở nơi cô tịch của tâm hồn . Người mua bán ngoài chợ kia có thể nắm trong tay rất nhiều đồng xu, nhưng không thể tạo ra chỉ một trái cà, trái ớt . Đường Đạo, đường Tu chẳng bao giờ là dễ - nhưng cũng không quá khó như bao người đã từng quan niệm.

    Nhà Phật có câu: “Quay lại - Ắt thấy bờ Giác!” Chẳng là sớm, cũng đừng lo trễ muộn. Ta cứ đi - sửa xống áo cho gọn gàng để dễ dấn bước, bỏ bớt đi những hành lý nặng nề và vô ích để đỡ vướng bận. Mặc vừa đủ ấm, đừng để —phong phanh” - ăn cho đủ no, đừng quá thừa mứa, cũng đừng kham khổ. Ngủ vừa đủ giấc, ngủ nhiều sinh lú lẫn, thiếu ngủ dễ nhược thần ...

    Mỗi đêm - trước khi nhắm mắt, ta nằm yên kiểm điểm lại những sự việc xảy ra trong ngày - tán thán cho hành động tốt đẹp, ân hận cho lời nói còn sơ sót, lỡ lầm. Chỉ khi sự vi ệc đã chấm dứt, ta mới đủ bình tĩnh để nhìn lại chính mình ... Đừng để lương tâm ngủ quên sau những bữa cơm thừa thãi và chăn êm nệm ấm!

    Nhưng cũng cần phải biết tha thứ cho chính mình những sai lầm và vấp ngã - Con người không phải là Thánh nhân, chẳng có ai trọn vẹn, không tì vết . Đừng ngồi đó mà than tiếc cho những sự vi ệc đã rồi. Điều quan trọng là: đừng bao giờ để ngã một lần nữa vào cái hố mà ta đã ngã một lần!

    Thôi - có lẽ tôi đã lý luận dông dài mất rồi, xin mời các bạn trở lại đề mục chính, vậy nhé!

    Anh Ch (huynh trưởng Nhân Điện), người luôn miệng trách tôi đi sai đường, lạc nẻo, không khéo ngã đường tà thành mê tín dị đoan - Người mỗi lần gặp tôi thuyết giảng hàng tràng những Kinh luận giáo điều - viện dẫn lời Phật dạy ... Giỏi như một vị “Trưởng giáo” chuyên nghiệp!

    Còn tôi, nói về Kinh - Luật - Luận thì vào hàng “abc”, đúng hơn là “trình độ i tờ” ... Tôi cãi lý với anh: ‘Kinh Phật thuyết giảng cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm - từ thời buổi hồng hoang, khi con người bản chất còn thiện lương, lòng tư hữu chưa nhiều . Đến bây giờ, hoàn cảnh cũng như nhân tình đều khác xưa - vật chất càng cao, lòng tư hữu càng lớn, tham sân tội ác dẫy đầy . Đạo giáo cũng cần phải cách tân một chút cho phù hợp. Nếu không sẽ trở nên lạc hậu, lỗi thời, không đủ sức thuyết phục mọi người nữa. Anh có nhớ câu: “Tùy duyên mà hóa độ - Tùy cơ mà ứng biến không?”

    Chê thì chê, trách thì trách - Anh Ch vẫn cứ đưa hết người nầy đến người khác tới nhà tôi để “ứng cứu” cũng như “thử nghiệm” về những khả năng của tôi - Từ đấy cũng xảy ra nhiều chuyện —giở khóc giở cười” ...

    Mùng tám tết năm 2006, anh Ch đưa tới một người xưng là xác “Bà cố, Ông cố” - nhờ giải tà, cứu cô em lầm đường lạc lối ... ‘Bà cố” tuổi trạc năm mươi lăm, người bệ vệ đến —quá khổ” - Bà hỏi tôi: ‘Nhà mi có tửu không?”.

    Tôi đem ra chai rượu gốc vừa mua về để cúng giỗ hôm qua - rót ra độ 100ml, bà bảo tôi uống. Sợ quá, tôi nói: “Con không uống được, chỉ cần nhắp môi là say —quắc cần câu” liền”. Bà lại bảo: “Uống đi, nếu mi là chánh thì uống vào sẽ không say. Nếu là tà thì mi xỉn”. Anh Ch nói:

    ‘Uống đi - đừng có đưa điện giải cồn nha!”. (Nếu đưa điện giải độ cồn, ta uống rượu vào chỉ như uống nước lã vậy thôi). Tôi nín thở, uống đại một hơi. Quả thực là không say.

    Bà cố lại nói: “Trong nhà của mi có một thằng thầy tu già người Campuchia - Nó hại chết con trai lớn của mi, giờ sắp hại tới đứa con trai kế, nó còn phá nát gia đình ông Ch đây nữa”. Tôi ngạc nhiên: ‘Dạ thưa bà Cố - Ông Ch đây thì có liên hệ gì đến con?”.

    “Bà Cố” chửi thề một tiếng: “ĐM, bữa nay tao còng đầu mày cho mầy biết tay” . Tôi đứng ngẩn ra mà nhìn: “Thì ra các Đấng cũng biết chửi thề, nói tục”.

    Rồi “bà Cố” phán: “Ta bắt thằng sư già đi rồi. Từ nay mi hết bị nó hại rồi” Tôi nói: “Sao con thấy đứng kia kìa”. Đáp: “Binh của ta đó, ta cho canh gác trong nhà c ủa mi”. Rồi “bà Cố” nói: ‘Nhà của ta là lò luyện Trạng - Tất cả các Trạng đều xuất thân từ nhà của ta.”

    Đến trưa hôm sau, Anh Ch điện lên hỏi: ‘Em ra sao rồi Lan” Tôi đáp: “Bình thường”. - “Chúc mừng em nghe - Từ nay là khỏe, hết bị hành xác nữa rồi”. Tôi nói: “Bình thường là Điển Ông vẫn còn nguyên đây, m ất đi đâu.”

    Anh Ch lên giọng cho một hơi: “Vậy là em u mê ám chướng đến hết thuốc chữa rồi”. Hai anh em cãi nhau một trận “long trời lở đất”, nghỉ chơi mất tám tháng, anh Ch lại “lò dò” lên tiếp ...

    Tôi hỏi Ông sao lại lặng im đứng đó, để cho người ta ho ạnh họe trong nhà mình như vậy - Ông đáp: “Chẳng lẽ rồi bôi mặt đánh nhau cho nhân thế họ chê cười! Chuyện chẳng có gì quan trọng, không nên để tâm làm gì.” Vậy đó!

    Lần nữa - Anh Ch dẫn lên ba người: Hai người là thầy chữa Nhân Điện, một người phụ nữ lớn tuổi - nghe đâu có Điện thờ đâu đó dưới chợ Hiệp Thành .

    Vừa nhìn tôi - một ông lên tiếng: “Tôi biết cô này thế nào rồi. Cổ là xác Hội, các phần Điển trên mượn xác về hành Đạo độ đời thôi - ví như một chiếc máy cát sét, để băng nào vô thì băng đó chạy vậy! Trường hợp thế nầy tôi chỉ gặp có một lần vào năm 1988 đến nay là lần thứ hai (2006)”.

    Anh Ch rất giỏi về cảm nhận trường năng lượng, nhưng không có khả năng nhìn bằng thể Vía. Anh cho rằng người chết không có linh hồn, chỉ là một dạng năng lượng . Hôm ấy, tôi xin Điển trên ứng về cho mọi người thử nghi ệm. Trước tiên tôi xin Điển Mẹ Quán Âm về - Anh Ch nói: ‘Phần này cao mà giỏi, trường điện dũng mãnh lắm”. Tôi lại xin Điển Bà Cửu Thiên, anh Ch cũng nhận xét y như vậy .

    Sau đó - tôi xin Điển Ngài Thích Ca, anh Ch nhận

    xét: ‘Điển này yếu hơn, thanh mà nhẹ”. Với Điển của Mẹ Diêu Trì, anh Ch cũng nói như Điển của ngài Thích Ca - Tôi xác nhận là anh Ch nhận xét đúng, mặc dù khi xin Điển về tôi không báo trước là Điển của ai: Điển của Quan Âm Bồ Tát và Cử u Thiên Huyền Nữ là Điển hành xử, như một vị Quan võ - Đương nhiên là dũng mãnh! Điển của Phật Thích Ca và Mẹ Diêu Trì là Văn Điển, nhẹ và thanh là đúng ...

    Thấy cô Tư ngồi im mỉm cười mà không nói gì, tôi thầm khấn xin Mẹ Diêu Trì nán lại trong chốc lát - Tôi hỏi cô Tư xem có thấy ai về đó không, Cô Tư tả: “Mẹ Diêu Trì chứ ai, bà m ặc áo lễ, đội một chiếc mão có những ngù vàng như hoa vạn thọ” ... Tôi cũng thấy như vậy.

    Tôi xin phép nhắc lại cho bạn đọc lần nữa: “Tôi chưa nói cho cô Tư và anh Ch biết là tôi xin Điển ai về” - Tôi lại xin Điển Ông ra mặt cho mọi người “trắc nghiệm” ...

    Điển Ông bước ra, trên môi phát một nụ cười - hai tay khua một vòng phía trước mặt như người đang “xuống tấn” luyện võ, xong rồi chắp hai tay trước ngực đứng yên.

    Cô Tư nói: ‘Phần nầy lạ quá, không biết là ai - Mặc một cái áo thụng vá từng mụn vuông, hai tay ông ấy làm gì không biết.” Nói rồi cô Tư đưa hai tay ra làm d ấu, y hệt như tôi vừa nhìn thấy ở Điển Ong - Vậy là cô Tư cũng có đôi mắt của thể Vía, nhìn được âm phần như tôi!

    Buồn một nỗi con người ta thường mang tính đố kỵ ... Ra khỏi nhà tôi, cô Tư nói với mọi người: “Tôi có thấy gì đâu, chỉ giả bộ nói vậy thôi”. Rồi cô khuyên anh Ch đừng tới chơi nhà tôi nữa: “Cô đó là yêu tinh, cổ sẽ nhận chìm chú Ch cùng gia đình xuống bùn cho mà coi”.

    Một người có vẻ ngoài đạo cao đức trọng, lại biết nói trớ trêu như nhân thế thường tình vậy sao?

    Về sau - Có người kể chuyện cùng tôi, đã vài lần thấy người phụ nữ ấy rón rén mang túi rác nhà mình vứt sang nhà hàng xóm .

    Có một thời gian - anh Ch hay đến nhà tôi cùng với một người bạn, tên Gi, khi tới lần thứ ba, ông Gi bị ai nhập vào không biết, ông ngồi đó “liếc mắt, đá lông nheo” với tôi, liếm môi và vuốt tóc như một chàng trai mới lớn, mặt mày đỏ lựng ... anh Ch nói: “Chắc Linh căn ông Gi về”.

    Tôi cười: “Quỷ nhập thì có chứ Linh gì!”.

    Ông Gi dường như cũng biết có gì bất thường ở trong mình, về nhà bảo với anh Ch: “Ông đừng chơi với cô Lan nữa. Gốc của cổ là Hồ Ly Tinh đó, chơi với cổ là tiêu đường Đạo. Ông không nhận thấy hai con mắt cổ nhìn trăm người đàn ông là mê đủ cả trăm hay sao.”

    Anh Ch nghe thấy cũng “run”, kể lại với tôi, ức quá tôi bảo: “Các người có tâm tà, quỷ nhập vào lại đổ thừa cho tôi. Anh Ch, hãy chờ vài năm nữa đi rồi thử xem ai tà ai chánh .”

    Hôm đó, tôi ức quá nằm khóc vùi. Mẹ Diêu Trì về nói: “Tên Gi đó nó ngã liền tức thì, ta đã ra lệnh phạt - con chờ đó mà coi”

    Nguyên ông Gi có một Am tự, Miếu đường thờ cúng gì đó, nghe nói là linh thiêng lắm. Đùng một cái ông bị “trúng tà” - Giở điên giở tỉnh mất gần nữa năm sau mới tạm ổn!...

    “Tà Chánh bất phân” - sinh ra đủ kiểu nghịch thường. Mới đây, khi tôi nhờ hỗ trợ trong vụ cô Kh bị bệnh tâm thần, anh Ch đã cho lệnh xóa bàn thờ Phật Bà, bảo V (chồng cô Kh): “Trang thờ và bình bông, lư hương đem ra ngoài đường đập bỏ - tà không ở trong đó đó”.

    Tôi ở nhà sau bước lên ngăn lại: “Chính anh tà thì có, gia đình bên Kh đạo Thiên Chúa, anh đã chứng tỏ cho họ thấy đạo Phật là tà đạo mất rồi. Quỷ nhập vào người, quỷ nào nhập vô bàn thờ Phật .”

    Sự gì đến đã phải đến: Cô Kh tĩnh trí thấy bàn thờ Phật bị xóa - đã đâm đơn ra tòa ly hôn với chồng!

    TẢN MẠN ĐỜI THƯỜNG

    ... Tôi ao ước có một ai đó đến bên mình, vực tôi đứng dậy và dìu tôi rời đi! Xa môi trường, hoàn cảnh - Nơi tôi sống và làm công việc đang làm suốt ngần ấy năm trời, gần một phần tư thế kỷ và gần nửa tháng năm tuổi sống của mình. Bởi vì bản thân tôi không có đủ năng lực để tự mình rời bỏ, ra đi!

    Một vinh quang cao cả được tán thán bởi các Đấng - với tấm lòng đại độ ban tặng và ân cứu. Một ca ngợi tôn vinh như một vị Thánh tử vì Đạo, hy sinh bản thân mình - Để buông trôi đi, rồi qua mất những tháng năm đẹp đẽ nhất của tuổi thanh xuân: hạnh phúc, tình yêu, niềm tin và hy vọng. Đến giờ - khi chỉ còn lại trước mắt những chuỗi ngày phiền muộn của tuổi già, khi thể xác rã mòn vì tật bệnh tàn phá bao năm - Tôi còn lại gì cho tôi, hay chỉ như loài hoa trắng kia chắt lọc mình để dâng cho đời nhụy hương tươi thắm. Để rồi rạng sáng ngày mai khi bình minh tràn về khắp nẻo, khi nhân loại đang tắm mình trong ánh nhật dương thì những cành hoa trắng kia lặng lẽ rơi ở một góc đời hiu quạnh.

    Tôi muốn chạy trốn, muốn vượt thoát ra đi. Nhưng giá mà trái tim này ngừng đập, những nhịp đập xót xa mẫn cảm vì đời, giá mà nhân loại bớt tai ương! Những con người bình thường, bé nhỏ và vô danh trước dòng chảy nghi ệt ngã và vô tình của định mệnh, và. Giá mà tôi đủ can đảm quay lưng.

    ĐỘC THOẠI

    Chiếc bóng ngồi bên khung cửa sổ, ngoài kia là bầu trời mênh mông.

    Trời thì mở ra, khoáng đạt và khao khát hồi sinh. Chiếc bóng thì lặng câm, chịu đựng và khép kín! Một rộng rãi và hào sảng, như sẵn sàng cho đi, sẵn sàng trao tặng và ban phát. Một lại muốn co mình lại, để nhỏ bé hơn, vô danh và lọt thỏm giữa ngoại vật quanh mình!

    Những ngọn gió lướt qua, dịu dàng và đằm thắm hôn từng bờ cây, ngọn cỏ. Những đóa hoa tươi vừa mới hé nhụy, trông như một minh chứng của niềm hoan lạc hiện hữu đâu đây, sẵn sàng làm đắm say bao trái tim đồng điệu. Và ánh sáng, ánh sáng rực rỡ, tràn trề như đang tuôn ra, chảy trôi, lấp lánh khắp mọi nơi. Vạn vật như được tắm mình trong nguồn diệu phúc...

    Chỉ còn lại chiếc bóng lặng lẽ, mơ hồ, bất động! Như tách rời khỏi thế giới chung quanh, như đắm mình trong một vùng ảo thức nào đó, khác hẳn cái nơi mà chiếc bóng định hình. Nơi chỉ có sự im lặng trường diễn, nơi lưu cửu những vùng ký ức bất động của tâm linh - Ở sau bức màn của bóng tối miên viễn, lạ xa và cách biệt với những gì đang hiện hữu chung quanh.

    Chiếc bóng như một vật thể bất động, chỉ có hơi gió nhẹ lay tấm rèm cửa ngang đầu, chỉ có những ngọn tóc tung tẩy, lang thang trên bờ vai phiền muộn.

    Chờ đợi gì ư? Không! Không có cảm xúc khắc khoải, nôn nao của sự đợi chờ. Không có nỗi mong ngóng, trở trăn của từng ước ao, hoài vọng. Tất cả đã trở thành xa lạ mất rồi. Hôm qua, ngày mai. Chỉ còn lại phút giây hiện tại trống rỗng, cô đơn và câm lặng!

    Có ai đó đã nói: ‘Ngày hôm qua không còn nữa, ngày mai thì chưa tới. Và cái phút giây mà tôi nói đây đã xa tôi mất rồi!” Vâng! Thế thì tôi còn lại gì cho tôi, còn gì cho tôi nữa không?! ...

    HỒN HOA

    Mùa xuân thắm sắc ngàn hoa Sao hoa mẹ vườn nhà chẳng nở Mùa xuân thắm sắc hoa Lan Sao Lan mẹ chỉ xanh màu lá?

    Có lẽ vườn nhà lắm gió Hoa kia chẳng kịp ươm mầm Có lẽ vườn nhà lắm nắng Héo hon, tàn lụi chồi xuân!

    Hoa Lan nhà người khoe sắc Trả công vườn chủ nâng niu Lan mẹ bao ngày ao ước Bạc lòng chi cánh hoa yêu?!

    Phải chăng đất trời cõi ấy Chẳng dung loài hoa thanh cao Hay tại lòng người thuở ấy Đảo điên - Hoa chẳng nở chào!

    Một giọt lệ rơi vào đất Ngàn giọt lệ rơi vào đêm Thương loài hoa trơ lá biếc Nắng mưa chỉ một thân mềm...

    Rồi một ngày kia bất chợt Hồn cây theo gió về trời Ngậm ngùi bên màu lá chết Mẹ rằng: thôi thế là thôi! Nắng mưa cũng rồi một kiếp Gió vèo... lá rụng... hoa rơi!!.

    ... Đêm - giữa đôi bờ vũ trụ Có một loài hoa không tên Khởi từ cội nguồn giông bão Nở ra ngàn cánh hoa tiên!!

    Tháng 8/2009

    DẤU HỎI

    Nỗi đau tượng hình đôi mắt Nỗi đau tượng hình đôi tay Quấn siết, đọa đày không dứt Đớn đau một giấc mơ ngày!

    Bão giông chực chờ phía trước Nghiệp đời truy đuổi sau lưng Linh hồn về đâu - Ai biết!

    Lang thang giữa chốn bụi hồng.

    “Ba vạn sáu ngàn... ” - một kiếp Hỏi còn có mấy lần đau Nợ gì - chim trời cá n ước Mỗi phương một khoảng trời sầu!

    U linh mấy tầng ngục thất Nại Hà bao lớp mê phong


    Âm Đài vĩnh tuyền dạ cách Quên chăng mưa gió đường trần?!...

    LOÀI LINH ĐIỂU TẬP BAY

    Chiều xuống rồi anh

    Hoa mười giờ đã ngủ

    Pháo đài sụp đổ

    Linh hồn đi hoang...

    Cây đàn Ghita khóc trên ban công

    Không phải tôi - cây đàn Ghita khóc!

    Chỉ có bóng đêm mới làm hiện hình sự thực

    Rằng tôi là một gã hề!

    Những con chữ trôi đi - âm u

    Cấu hình đổ gẫy

    Ta sống giữa mơ hồ „

    Yêu đương và phụ rẫy!...

    Loài Linh Điểu tập bay

    Dấu sau lưng đôi cánh đầy thương tích

    Loài Linh Điểu tập bay

    Bay lên... về miền gió hát!

    Rồi một ngày sẽ khác Chở trái tim muộn phiền Bầy Linh Điểu bay lên Nguồn ân cứu vô biên...

    Còn lại sau lưng vũng lầy sa mạc Trên cánh đồng đời - vực khát!

    Hạt mưa trời bao dung Nắng sáng lên rồi em Nỗi đau hóa thân thành sẹo Ch ỉ còn lại tiếng cười trong trẻo Ngọt ngào vũ điệu chuyển luân...

    Cây đàn Ghita không còn khóc trên ban công Rồi phai - dấu mòn trên ghế

    Đâu rồi... Người nghệ sĩ lang thang

    Dãy mây trên trời trắng một màu tang!!.

    10/12/2009

    NHÀNH HƯƠNG NGUYỆN

    “Gió phương Bắc xô về phương Nam! ” “Tin áp thấp!”- Trời chưa làm bão... Một chút vui, chút buồn gượng gạo Cảm ơn Trời bớt một lần giông!

    Rét mướt lạnh lùng cơn mưa mùa đông Ai trăn trở giữa lòng chăn ấm Ai gối đất nằm sương - bu ốt lạnh Bão qua rồi... Cửa nát nhà tan!!

    Ta gối đầu trên Bình nguyên phương Nam

    Thương đất Mẹ miền Trung - đòi loạn!

    Đêm thao thức nhớ mùa ly loạn Chinh chiến thiên tai - họa đất, nạn trời...

    Một nén hương mặc niệm bao người Nằm xuống sau những lần thảm họa Một nén hương nguyện cầu lượng cả Hóa Công ơi! - Rộng dạ nương đời!!

    Một nén hương mở rộng lòng người Xin cúi xuống chìa đôi tay tin cậy Đêm phốphường xa hoa lộng lẫy Giọt lệ nào trong tối - giữa đêm thâu!...

    Bất công còn nhiều... Nào biết vì đâu Máu đỏ da vàng ai cũng quyền được sống Kẻ gối đất màn trời - Người chăn êm nệm ấm Đành sao?!...

    19/01/2010

    NỖI ĐAU

    Bạn sẽ làm gì - ngay trong phút này đây, nếu bạn đang phải chịu một sự đau đớn như tôi, ngay - phút - nầy đây?!

    Cơn đau trải dài từ chót cổ xuống thắt lưng, xuống hai đầu gối, hai kheo chân - và tận cùng ở khớp ngón chân cái. Chừng như ở đâu có xương thịt, ở đó có cái đau, chừng như máu đang ngừng lưu thông trong cơ thể. Cả một thể xác to lớn kiệt quệ, không ngừng rên rỉ, quằn quại.

    Mỗi bước đi là một chuyển dời đau đớn, mỗi một thời khắc sống là một đọa đày - Bạn sẽ làm gì? - Nằm lặng im trên giường, lắng nghe nỗi mệt mỏi dã dượi đang ngân lên trong từng thớ thịt, hay nhắm mắt, để rơi vào cơn mê thiếp rã rời? Tôi bây giờ đang lê từng bước trong nhà, né tránh cái đau, bậm môi lại một cách lì lợm - và lại làm việc. Những công việc trong nhà của một người nội trợ thường ngày vẫn nhẹ nhàng, nay bỗng trở nên như một cực hình đáng sợ!

    Đứng lên, ngồi xuống, bước tới, quay lui. mọi day trở chuyển vận đều như có cơn đau đang xé lên từ đâu đó trong người. Lặng nghe ngóng, theo dõi. mãi rồi chẳng biết cơn đau nó khu trú ở chỗ nào, chẳng biết nó đến tự bao giờ và chừng nào thì nó sẽ ra đi! Giống như bước chân Thần Chết lặng lẽ, rón rén, dọ dẫm từng phút, từng giờ. Thế nhưng. chiếc lưỡi hái của ông dấu ở đâu rồi? Chưa đến lúc nó vung lên - Đợi đấy, hãy còn lâu!!

    Linh Hồn! Nếu mi chịu buông rời thể xác nầy ra, thì chắc là nó không còn đau đớn nữa - Chúng ta điều đình với nhau được không?... Suốt dọc đời, những tháng năm “ngự trị” ở cõi tạm nầy, thể xác ta đã lặng lẽ chắp cho mi đôi cánh - Thế thì hãy bay lên đi, nấn ná chi để kéo dài hơn nữa những cơn đau vốn đã quá dài!

    Mi tưởng mi là ai, mi tưởng mình đang làm gì vậy? - Muốn thử nghiệm những đọa trần cõi thế, muốn nếm trải gi ọt đắng cuộc đời - Hay muốn tìm kiếm một luận chứng phóng sinh? Muốn nương xác vọng Đạo hay tìm cớ hưởng lạc cầu an - Muốn dấn thân hay đang tìm nẻo quay về?!...

    Hỡi Vĩnh Cửu - Mi cần bao nhiêu giả tạm để làm nguồn cội xây lâu đài, điện ngọc cho mình? - Nầy Hư Vô! Mi cần bao nhiêu được mất có không để tôn vinh ngai vị?? Hãy kéo nhau đến đây - Cái Linh Hồn phản trắc khoác áo thanh cao, tôn thờ Đấng Vĩnh Hằng, mượn xác trần bợn nhơ làm bệ phóng!

    Ta với mi vốn tồn tại cùng nhau (trong chừng mực nào đó) - Ta chẳng hiểu mi sao, chỉ có mi mới không hiểu được ta! Ta cần chi thứ danh phẩm của mi, cần chi cái mà mi gọi là “Vòng - Nguyệt - Quế - của - Linh - hồn?”.

    Tồn tại cùng mi, ta đã phải chịu đựng những “thành quả” mà mi vốn có, phải cười khóc, hạnh phúc và bi thương, yêu đương và thù hận. Phải nếm trải những “cảm

    xúc - tưởng - tượng” siêu hình, thứ xúc cảm chỉ tồn tại ở thượng tầng tư duy, thuộc về nửa sau của nhân vật “Con - Người!”.

    Phục Sinh - Để rồi lại đến một lúc nào đó, ta ngẩn ngơ nhận ra rằng: Nếu không có mi, ta chẳng phải chịu nhiều bất hạnh đến thế!!

    Xác trần thì có là gì đâu - một hạt cát giữa sa mạc trùng trùng, nơi mà đến cả Thượng Đế cũng chẳng thèm cân đong đo đếm; lẽ ra ta đã được yên thân!

    Bây giờ - trong cơn đau rã rời của thể xác, mi có cảm nghĩ gì? - Một vòng Nguyệt quế, cái lọng che trên đầu hay đôi cánh sau lưng?! Một nơi chốn Thiên Đàng nào đó, nơi mà bản thân nhữ ng kẻ đứng chân trên đất như ta chỉ bi ết trong tưởng tượng.

    Ta cần gì cơ chứ?! Điều ta cần là một thân thể khỏe mạnh không tật bệnh, đớn đau, một mái che trên đầu, chiếc giường tốt ngả lưng và những bữa ăn đầy đủ - để cho những ngày tháng tồn tại của mình được nhẹ nhàng.

    Rồi cũng đến ngày trở về với cát bụi, ai mà chả thế!

    Thế thì tại sao lại chẳng tìm cho mình một con đường quang đãng mà đi, tội chi phải bám lấy hư vinh, chờ đợi một cuộc phóng sinh - vào cõi mà ta chưa biết?...

    ... Mình lẫn quẩn mất rồi, mình đang nói với ai đây?

    Hồn bên ta như bóng với hình. Hình trách Bóng hình đau, bóng chê hình bóng lệch - Kiếp phù sinh mới nửa, mộng còn lâu!

    Ngẩng lên Trời mà kêu, tiếng than chìm khuất giữa trùng trùng hư ảnh - Gió kéo mây về, che mất bóng tà dương. Thiên Đàng đâu, Địa Ngục dưới bàn chân - và giọt

    Đã từng có một lúc nào đó ta tôn thờ mi, như người Chủ tế ngợi ca tôn vinh thần tượng của mình trong ngày lễ lệ chảy vào tim - ứ nghẹn!

    6/11/2002

    ĐÊM KHÔNG NGỦ

    Đã bao nhiêu đêm rồi, tôi không ngủ được an giấc. Giấc ngủ ng ắt quảng, muộn mằn... xen vào đó là những ý nghĩ - những ý nghĩ tự nhiên tới, song lại như tia chớp gi ữa đêm hè rạch xé mảnh trời quen, thoáng qua rồi tưởng chừng mất hút - song dường như vẫn trụ lại đâu đó, ở tận cùng sâu thẳm trong tâm.

    Tôi thấy mình loay hoay, rối rắm giữa cuộc thế không cùng, chạy theo nó - bị nó làm chủ, điều hành và sai khi ến. Tại sao vậy nhỉ? Thân xác của ta, ta làm chủ cơ mà! Ta cho nó ăn thì nó được ăn, cho nó được mặc thì nó được mặc - Ta quyết định được hình tướng bên ngoài, ta làm chủ được hành động - Vui buồn sướng khổ, cau có hay giận dữ, hoan hỉ hay từ ái đều do tâm quyết định, ấy là tâm làm chủ vật!

    Thế nhưng ta lại vui buồn, yêu ghét vì một vài câu nói vu vơ. Khi đói lạnh thì tâm loạn trí mờ, tay chân run lẩy bẫy - Lúc giận dữ thì tâm loạn trí cuồng, khi hoan hỉ thì nhẹ nhàng sung sướng - Lúc bình yên thì thanh thản, khi hữu sự thì rối rắm, hoang mang - như thế là vật làm chủ tâm rồi vậy!

    Ta vô tình lệ thuộc vào cuộc đời, bị nó trì kéo - xô ngang đẩy ngửa như chiếc lá giữa dòng, đi về đâu chẳng bi ết, đến nơi nào không hay. Thế là ta đã để cho ngo ại vật làm chủ lấy mình - Còn ta nô lệ vào nó, bị nó vo tròn bóp méo ra sao cũng mặc!

    Là ta đấy ư?! Một ta biết suy nghĩ đắn đo, biết phân biệt phải trái nên hư, biết tự răn mình ăn ngủ đúng giờ giấc để giữ gìn sức khỏe, biết suy biện cho sáng suốt, thanh tao để tôi dưỡng cái Tâm - Muốn nâng cao tâm hồn mình lên, để thoát ra ngoài cái dung tục của cuộc đời.

    Thế mà một lúc nào đó để cho mình chìm đắm, đọa trầm - để bị lôi kéo theo ngoại vật giống như con ngựa kia bị gắn hàm thiếc đứng trước chiếc xe, kéo xe đi đằng sau nhưng kỳ thực đang bị chiếc xe làm chủ, bị nó đùn đẩy ra đi - mà không biết về đâu!

    Sao ta không chịu làm chủ lấy thân tâm, an nhiên tĩnh tại - vượt ra ngoài lẽ thường tình, không để gi ả trần lôi cuốn , chẳng bị hư tâm quấy nhiễu.. .Ta trụ lại giữa đời, ngắm phù vân trôi qua ngoài cửa, nhìn lưu thủy cuốn xác lá xuôi dòng - Đói thì ăn, ăn đủ no - không cầu miếng ngon vật lạ. Khát thì uống, không cầu hương vị sắc màu.. .An uống ngủ nghĩ, suy tư và hành động đều tự nhiên nhẹ nhàng, cốt đơn giản, đừng rối rắm. Như cánh hoa ngoài sân kia - tới lúc nở thì hoa nở đâu đợi gió chờ mưa, đâu bì Xuân nán Hạ.. .Hoa nở rồi hoa tàn cũng là lẽ tự nhiên, việc chi phải để lòng vướng bận?

    Không để cho ngoại cảnh chi phối, không để cho nội tâm dằn xé mình. An khi đói, uống khi khát - buồn ngủ thì đi ngủ. Hứng chí thì nửa đêm chỗi dậy mà làm Thơ!... Hành xử theo lẽ tự nhiên, ấy là ta làm chủ được thân tâm rồi vậy - An nhiên tự tại, lẽ nào không thoát được vô thường.

    Không cần chí lớn tài cao để làm nổi đình nổi đám, không cần huênh hoang khoác lác để chọn lấy hư vinh.

    Mặc chiếc áo bình thường, nệ chi cửa sang hèn lai vãng. Xử sự cho khiêm cung, hòa ái thì đâu có ai ganh ghét, thị phi! Đừng muốn ngồi ghế cao thì đâu có người chực bê xuống thấp, không tranh biện thì chẳng kẻ hơn thua. Thế chẳng phải đời sống sẽ trở nên đơn giản, nhẹ nhàng - tâm tư cũng bình yên, an tịnh! Ví như người đi chân trần trên nền đất, bước nhẹ nhàng hoãn đãi không trì gấp, nặng nề thì cho dẫu đá sỏi dọc đường, có gì chọc thủng được bàn chân đang nhẹ bước!

    Ay là ta làm chủ được thâm tâm, tiến tới làm chủ được ngoại cảnh rồi vậy. Há chẳng phải cuộc đời nầy đáng sống lắm ru!!...

    20/02/2003

    CHUYỆN ĐÀN CHIM THIÊNG

    Đàn - Chim - Thiêng!

    Bay qua giấc mơ về sáng Mộng lành thoáng hiện Tiếng ai cười trong mơ...

    Đàn - Chim - Thiêng!

    Lạc vào miền cổ tích Bên lá hoa trầm tịch Đôi cánh màu long lanh

    Đàn - Chim - Thiêng!

    Bay về phương nắng ấm

    Bỏ lại giữa lòng đất lạnh ,

    Vài nhánh lông muộn phiền...

    Đàn - Chim - Thiêng!

    Đùa mây rẽ gió Quên giấc mơ trần thế Đàn chim Thiêng về nhà...

    Còn lại nơi đây - hôm qua Giọt máu hồng tươi màu lửa Mũi tên lạnh lùng xé gió Cánh mây ngang trời vội đau!!

    ... Đàn - Chim - Thiêng Đi đâu - về đâu?...

    15/12/2009


    THÔNG ĐIỆP TÌNH YÊU

    Tấm thiếp mừng Valentine

    Bay từ trờiphương Bắc

    Qua bao chặng dừng - thấm mệt!

    Nằm in một góc trang Thơ..

    Mười - Bốn - Tháng - Hai, ngày Hội Tình Yêu

    Triệu triệu đóa hồng chuyển tiếp

    Mang thông điệp của Tình Yêu - Hạnh Phúc

    Đi cùng khắp nhân gian... hơi ấm buổi xuân về!

    Nới rộng vòng tay, vun đắp tình người

    Để trái tim thêm một lần rộng mở

    Để ta lại... như lần đầu bỡ ngỡ

    Nói lời yêu:yêu Bạn, yêu Em!

    Yêu Nàng Thơ giữa thao thức từng đêm

    Yêu chiếc áo sờn vai ngày khốn khó Yêu giọt nắng len vào khung cửa nhỏ Yêu sợi mưa chiều gợi nhớ bâng khuâng Yêu người hôm qua mới được làm quen Yêu đôi mắt... từ lâu không gặp nữa Yêu cánh gió (khi chưa làm giông bão)

    Yêu trùng dương (ngày chẳng dậy phong ba) Yêu những điều tốt đẹp có quanh ta Yêu cú ngã... Làm thăng hoa cuộc sống Yêu cái bắt tay đổi thù thành bạn Yêu mọi sắc màu đậm nhạt long lanh!

    Yêu đôi câu.

    THỰC HÀNH CỤ THỂ (14)

    Một buổi chiều, tôi và chị NT đang ngồi chơi thì có điện thoại của H.A - Vốn trong giới văn nghệ sĩ cũng có biết nhau, tôi truyền điện thoại để H.A chào hỏi chị NT Vừa ngưng điện, tôi nghe thấy có Binh gia báo làm ngứa ran cả người. Truy ra, tôi bắt được một đội 13 binh gia - cả thảy đều là. Mèo! Một con mèo đen hai mắt xanh lè, dẫn theo một đàn 12 con mèo đủ loại khác nhau. Tôi hỏi thì chúng bảo là ở Chùa Giác Uyển, là Binh của vị Sư trụ trì Chùa, nhiệm vụ chỉ để lôi kéo các Tín đạo về cúng dường cho Tam bảo.

    Khi hỏi Binh theo ai tới, chúng trả lời: “Từ ông già đầu bạc vừa điện thoại” - Tôi hỏi chị NT có nghe nói chùa G.U ở đâu không, chị bảo: “Là chỗ gần nhà H.A, nơi Mẹ và vợ ông ấy quy y đó!”.

    Tôi trụ thần đến Chùa, nhìn ra chân tướng vị Sư trụ ... Để Tình Yêu là ngọn lửa song hành Là hơi ấm xua tan mùa băng giá Là tuôn chảy, hòa tan... tràn vũ trụ...

    Thông điệp Tình Yêu ta gởi bạn hôm nay. Ngày Valentine Mười Bốn - Tháng Hai!!

    trì là một Đạo sĩ Linh căn, có đến hơn 500 Binh dưới tay - Cả người lẫn mèo, chó! Những vong mèo hoang, chó hoang đi lang thang bị ông bắt về làm Binh cho mình. Cầu Trời Phật cho ông đừng dụng Binh làm điều ác để sa vào nghiệp dữ!

    Những người học Nhân Điện của nhóm chúng tôi (ở nơi khác thì tôi chưa rõ lắm), cứ như một “ra đa” dò sóng, hoặc một nam châm có từ tính - rất nhạy bắt được các

    luồng sóng âm tầng, cả cõi Trên cũng như cõi Dưới. Nếu năng lực chưa cao, anh chị em bị khều móc để ứng báo, nếu phần âm cao sẽ bị rùng mình ớn lạnh dọc sống lưng hoặc nặng đầu, cứng gáy tối tăm mày mặt như hiện tượng bị trúng phải gió độc... Có điều sau khi giải âm ra cơ thể ngay lập tức trở lại bình thường!.

    Có một cô gái nhà ở Phú Nhuận, được bạn đưa lên nhờ tôi giúp - Th ấy có nhiều phần âm đang án vào, có cả Bùa chú, Binh gia. Tôi dùng ba nén hươ ng vẽ hình An Phật ngay giữa trán, vong lập tức nhập vào cô gái ấy!

    Có 3 phần vong nhập, liên tục trong gần 1 giờ đồng hồ. Vong người anh, vong đứa con hư thai và vong vị Thần trong kiến Họ!

    Khi tôi bảo cô gái ấy: “Chuộc bùa chi dữ vậy không biết!” - Thì cô chối phắt, bảo không biết bùa chú là gì! Vong người anh về nói: ‘Nó nói dối cô Hai đó - Nó chuộc 4, 5 lá bùa trong người kia kìa!”.

    Ra cô ấy làm nghề “canh sòng bài”, hèn nào chẳng ưa Bùa phép!

    Sau khi 3 phần vong nhập về, tôi chỉ cô gái ấy về cúng vong, cho Binh gia ăn mỗi tháng để khỏi bị vong quấy! Tôi chẳng dám giúp thêm gì nữa, vì sợ “bị đòn thế” nặng nề - Những phần có nhiều nghiệp chướng như vầy mà tôi ra tay cứu, sẽ bị hành rất dữ!

    Một người đàn ông giàu có, sang trọng, chạy xe mô tô đến nhờ tôi giúp tìm hiểu cho 1 việc: con trai ông chết đã 3 năm nay vì tai nạn xe cộ. Nhiều nơi bảo do bị ám hại mà chết! Tai nạn xảy ra ở bãi xe bồn Linh Đông - Thủ Đức.

    Khi tôi chuyển thần đến tìm hiểu tại bãi xe, nơi tai nạn xảy ra - tôi thấy vong cậu con trai ấy đang còn ngồi gục đầu dưới một gốc cây rất to, loại cây rừng không có trái...

    Người cha xác nhận: “Đúng rồi! Đó là gốc cây Chò Chỉ, con trai tôi chết ngồi dưới gốc cây đúng như cô đã tả. Nó bị xe đụng lết vô đến gốc cây thì chết ngồi luôn tại đó! Cô hỏi nó coi sao không ở nhà mà ra ngồi đó chi vậy?”

    Tôi hỏi, cậu trai bảo: “Con không vô nhà được vì chưa đủ lễ!”. Khi tôi báo lại người đàn ông ấy “cười khẩy” một hơi, bảo: “Chị nói tôi nghe mắc cười quá! Tôi bỏ bao nhiêu tiền thuê 03 ông Thầy Pháp lập đàn tế tại chỗ con tôi chết để rước vong. Rồi 12 vị sư của Chùa Pháp Hoa về tận Tổ Đường Nha Trang hành lễ, trình vong và rước vong về. Vậy mà chị nói không vô nhà được thì tôi “hết ý kiến” luôn!”.

    Tôi giải thích: ‘Nếu cháu vô nhà được, thì tôi đã chẳng thấy nó còn ngồi nguyên trạng chỗ gốc cây đó như vậy! Thương là thương cho hồn xiêu phách lạc còn lang thang hàng xứ kìa - Anh về tìm đến một vị Thầy cao tay ấn nào đó nhờ họ giúp rước vong về kẻo tội!”.

    Khi tôi bỏ ra nhà sau, chị NT (lúc đó đang đến chơi ở nhà tôi) nói với ông ấy: ‘Năn nỉ cổ đi - Cổ làm được hết mà không lấy tiền bạc gì đâu!”. Người đàn ông xin tôi cho đưa vợ mình lên gặp - Tôi lắc đầu: “Tôi chỉ giúp anh được có thế, anh nên về tìm thầy cao tay ấn để giúp vong hồn của cháu, tôi không làm được chuyện đó!”.

    Sau khi người đàn ông ấy ra về, chị NT có vẻ gi ận, trách tôi: “Người ta không biết đường Đạo nên còn vô minh. Mình hành Đạo đừng nên chấp nhặt mà nên cứu người mới phải!”. Tôi trả lời: “Đó là Nghịch duyên chị à! Nếu đã nghịch số, mình đưa bàn tay vào đó là bị đòn chết thôi!”.

    Mỗi lần có trường hợp “thất bại” như vậy, sau đó tôi

    Tôi hẹn ngày xuống tận Bình Dương để điều tra tình hình xem sao.

    Ông GĐ kể chuyện công ty mới thành lập một thời gian ngắn đã gặp chuyện bất thường: Một chiếc xe Lu vừa chạy lên tới đường cái, tự dưng quay vòng vòng rồi đâm thẳng vào nhà dân, làm sụp đổ bức tường - đền mất 60 cứ xót xa hoài, mặc dù cũng “thở phào” một cái - vì thoát một trận “đòn thế” nặng nề!.

    Triệu!

    Đêm trước ngày xuống Bình Dương, tôi trụ thần xin

    Một hôm, chị NT nhờ tôi giúp một người - Nguyên là GĐ của 1 công ty TNHH ở Bình Dương! Hôm đó, đang “bị đòn thế” chuyện gì không biết, tôi lắc đầu, nhăn mặt.

    Ít hôm sau - chị NT mang lên một phong bì hồ sơ, trong đó có cả giấy tờ mua bán đất, giấy chủ quyền đất và gi ấy tờ thành lập công ty.

    Điển Mẹ về, bảo: ‘Người nầy tốt, có đạo đức nhưng đang gặp nạn, con giúp đi - Ta ứng trợ!”.

    Ba đêm liền - tôi đều mơ thấy vong hồn chiến sĩ, có đêm thấy một người anh đi tập trận trên Huyện, đưa về nhiều chiến sĩ, nhờ tôi giúp cho việc gì đó - Đêm sau lại thấy họ đem cả vợ con tới cầu cứu. Đêm sau nữa dườ ng như thấy tôi không có ý kiến gì, họ kéo nhau tới ngồi dài dài theo ngõ nhà tôi, nhốn nháo đi lại nhưng không thấy vọng động gì.

    Năng lực của tập thể quả là mạnh - họ có thể tác động cho tôi ba đêm liền đều mơ thấy vong chiến sĩ kéo về cầu cứu. Đây lại là vong chiến sĩ cũ - Thủy quân Lục chiến hay Biệt động gì đó, tôi thấy họ mặc áo lốm đốm hoa dù, nghe chừng đông lắm!

    Điển - Vía thấy chiếc xe lu ấy đang chạy trên đường lớn, đột ngột từ hai bên có nhiều chiến sĩ mang súng truy đuổi sau lưng, kích cho xe lao vào nhà bên cạnh.

    Sáng hôm sau, ông GĐ vừa đến nhà, tôi đã nghe ớn lạnh từng luồng dọc theo sóng lưng, lo có chuyện chẳng lành trên đường đi, tôi xuống giọng nói với phần âm: “Tôi biết đang có nhiều vị đi theo GĐ đây! Tôi xin các vị trợ cho chúng tôi thượng lộ bình an, chiều nay về tôi bảo ông ấy mua lộc thực và tiền bạc chiêu đãi cho. Bằng như có điều gì bất thường - các vị phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, lúc đó thì đừng trách sao tôi ác, nhớ nghe!”.

    Xe xuống Bình Dương, vào xí nghiệp, ông GĐ dẫn tôi và chị NT đi “tham quan” chung quanh, tôi thấy có rất nhiều vong chiến sĩ bồng súng canh gác, dài theo cuộc đất. Tôi chỉ: “3 tên đứng gần mé sông, 2 tên ngồi trên trụ cầu, 3 tên gác chỗ làm máy móc, thiết bị.”

    Tôi trụ thần khấn xin: “Cho tôi được tiếp xúc với vị chỉ huy của những vong chiến sĩ ở trong cuộc đất này!”.

    Bỗng dưng từ ngoài cổng rào ở xa xa, tôi thấy có hai toán lính bồng súng sầm sập chạy vào, tới trước mặt chúng tôi tiểu đội đứng nghiêm chống súng xuống đất, còn 1 đội chạy ra đàng sau những trụ bê tông chỉa súng vào chực tiến đánh!.

    Tôi hết hồn, nói nhanh: “Tôi không tới đây với ý xấu, xin đừng vọng động! Ngày GĐ đây mời tôi làm sứ giả giao tiếp giữa người âm và người dương. Xin cho tôi gặp vị chỉ huy!”.

    Một người tuổi độ dưới 40, bước tới trước nói: ‘Là tôi! Trung úy Nguyễn Bác Trạc 37 tuổi!”. Sau khi điều tra, tôi biết họ gồm có 52 người tổng cộng, đồn trú tại cuộc đất ấy!.

    Tôi mở một cuộc “thương thuyết”: “Chúng tôi biết các vong hồn chiến sĩ - nhất là lính chế độ cũ - Rất khổ sở và đói khát, lại bị truy đuổi gắt gao! Các vị cũng chẳng muốn phá khuấy người dương làm gì - thôi thì cùng nhau ngồi lại bàn tính để tìm cách sao cho đôi bên cùng có lợi!

    Tôi có ý kiến thế nầy, xem các vị có đồng ý hay không.

    Chúng tôi cho lập Miếu thờ chiến sĩ, mỗi tháng chu cấp tiền bạc, lộc thực đàng hoàng. Từ nay trở đi các vị không đói nghèo thiếu thốn nữa - Đổi lại các vị cho binh sĩ canh gác, bảo đảm an toàn cho xí nghiệp.”

    Vong hồn NBT bằng lòng, chúng tôi bảo họ dẫn đường chỉ cho nơi chốn đặt Miếu, NBT dẫn ra gần cổng rào, chỉ vào 1 góc nhỏ dưới bóng mát mấy cây bạch đàn - Tôi chọn ngày cho lập Miếu và lễ vật. Thế là xong một vi ệc lớn!

    Vào văn phòng GĐ - tôi thấy có một tủ thờ, trên đó là một tượng Quán Thế Am bằng sứ rất đẹp, tượng ngồi, cao độ 40 cm: thì ra GĐ có lòng tin, nhờ vậy mà Bề Trên mới cho cứu!.

    Tôi xin cho tiếp xúc với vị Thần cai quản đất đai, hứa sẽ dâng tiến lễ vật. Lần lượt - ra mặt và xưng danh thêm vài vị khác: Một vị Thần đường đi, một vị Thần công xưởng, một vị Thần quân binh. Loay hoay - Vía tôi lại thấy từ dưới sông trồi lên 1 ông chạy vào đứng lại ngoài cửa, người ướt đầm đìa (vốn cuộc đất đặt xí nghiệp nằm kề mé sông) tự xưng mình là Thần sông. Tôi hỏi vị ấy muốn tiền bạc lộc thực hay không - Đáp: “Lộc thực thì tôi xin, tiền bạc thì không, vì tôi không dùng được tiền của người trần, tôi không được phép lên bờ để mua sắm lộc thực”.

    Thêm 2 vị Thần Tổ nghiệp của riêng ông GĐ - tổng cộng là 07 vị Thần, tôi bàn qua với GĐ, chọn và thống nhất ngày cúng lễ, hứa sẽ tặng cho mỗi vị Th ần một bộ Giáp trụ đẹp đẽ đàng hoàng và tiền bạc, lộc thực.

    Xong việc - tôi lại điều tra đến phần âm. Thấy có 07 âm vong, họ khai là xương cốt còn nằm trong lòng đất thuộc XN - khi tôi kể, người quản đốc XN xác nhận: ‘Những nhà ở chung quanh khi đào đất, thường phát hiện ra nhiều xương cốt nằm rải rác đó đây!”.

    Lại thấy lấp ló ngoài hiên mấy âm vong nữ, tôi gọi vào, đếm thấy 05 người, khai là những người con gái xưa bị lính bắt vào cưỡng hiếp đến chết, giờ vẫn bị giam giữ. Sống làm “đồ chơi” cho người xong chết lại làm “đồ chơi” cho ma - thật là thảm thương biết mấy!

    Một cô gái vừa kể xong, một vong nữ ở gần đó nhào tới tát tới tấp vào mặt. Tôi trói nghiến lại, hỏi ra là vợ ông sĩ quan. E vọng động không tốt, tôi cho mời vong NBT vào, báo cho biết mọi chuyện xong cởi trói trả vong! Tôi khuyên 4 —yêu nữ” theo tôi về nhà, mỗi tối nghe Kinh một thời gian cho tiêu bớt nghiệp chướng sẽ được đưa đi đầu thai sang kiếp khác... Tôi mở nắp KTT, để trên bàn để nếu họ bằng lòng thì tự nguyện chui vào - xong rồi tôi quên mất không nhớ đóng nắp KTT! (Chuyện tiếp theo tôi đã kể ở HMLK tập I).

    Kiểm tra lại, tôi vẫn còn nghe báo có binh, bùa ở đâu đó trong phòng GĐ. Tôi hỏi thì ngài GĐ móc ở trong túi ra 01 lá bùa để trong phong lì xì ngày Tết: ‘Đây là của Mẹ tôi, mẹ ăn chay trường tụng kinh niệm Phật, chắc không phải là tà phép!”.

    Tôi vừa đặt 2 ngón tay lên nghe ngóng chợt bên trong dường như có 2 cây kim chích vào ngón tay đau nhói, khiến tôi phải rụt tay lại - thử lần nữa vẫn bị như cũ, rõ ràng trong ấy có “tà thứ dữ”!.

    Kể từ ngày lập Miếu chiến sĩ, tình hình trong XN yên ắng hẳn.

    Cho đến một ngày - ông GĐ điện cho tôi báo: “Mấy hôm nay công nhân bị phá dữ quá mà không biết làm sao: ngủ trên giường bị hất xuống đất, trên võng cũng bị. họ sợ quá đòi bỏ việc, không làm nữa!”.

    Tôi trụ thần, chuyển Vía xuống XN gọi NBT - người chỉ huy quân lính ra hỏi, vong ấy nói: “Không phải chúng tôi, là những người kia kìa!”. Theo tay chỉ, tôi thấy một nhóm âm vong và 01 vị Chúa Quỷ! Điều tra, họ khai ra từ lá bùa của người vợ ông GĐ. Hỏi: ‘Nhiệm vụ?” - Họ khai: ‘Phá khuấy và ngăn trở công việc”. Nghe lạ quá - tôi hỏi lại GĐ, ông ấy kể chuyện vợ chồng đã ly thân mấy năm rồi - Hèn nào cô vợ ức chồng phá chơi cho bỏ ghét!.

    Tôi giải lá bùa, thu hết binh. mọi sự lại bình yên.

    Nhưng từ đây trở đi là những tháng ngày “khổ nạn” khôn cùng của ông GĐ - Từ một người Đảng viên trí thức cao, không mê tín dị đoan. đến chỗ bị tà đánh liêu xiêu từng ngày một. Khi tôi viết hết chương này, chuyện của ngài GĐ vẫn chưa chấm dứt, vẫn còn chưa hết —nợ trần ai!”.

    Một hôm - ông GĐ lên nhờ tôi chẩn bệnh: cả tuần nay bị đau nhừ cả người, cột sống như bằng gỗ, mỗi sáng thức dậy phải dựa tường lần vách mới đứng lên được.

    Hỏi lại, tiền sử ông chưa từng bị đau như vậy bao giờ!

    Tôi kiểm tra, thấy có 1 lá bùa do 1 Chúa Quỷ và 12 binh là quỷ án vào - Mời Chúa Quỷ ra truy hỏi, họ báo lá bùa ấy do người vợ của ông GĐ chuộc về để hại ông.

    Tôi giải bùa, trả binh tướng về cho Thầy tổ, ngay sáng hôm sau ông GĐ trở lại bình thường, không còn bị đau nhức nữa.

    Đến một ngày - ông GĐ đi ăn đám tiệc ở nhà người bà con bên vợ! Vừa về đến cơ quan, ông phát nôn ói và đau bụng quằn quại, đầu lại nhức như búa bổ, như có ai cầm kềm mà kẹp chung quanh đầu! Khi nhờ người điện thoại cho tôi, ông nói không thành tiếng.

    Kiểm tra, tôi thấy ông bị bùa đánh! Tôi trục bùa, thu hết binh tướng - dặn ông nếu sau 15 phút nữa chưa hết thì điện cho tôi. Quả nhiên, chỉ 15 phút sau ông GĐ đã hoàn toàn trở lại bình thường, không còn nôn ói, đau bụng và cũng hết nhức đầu!

    Qua những lần đau “đột xuất” như vậy, ông GĐ mới tin lời tôi nói là mình bị bùa đánh. Tôi bảo ông trụ thần nhớ lại khuôn m ặt của từng người trong bàn tiệc chiều hôm ấy, tôi phát hiện ra chủ của lá bùa là. bà Mẹ vợ!

    Ông GĐ rất ngạc nhiên: “Không lẽ nào! Mẹ vợ tôi hi ền, ăn chay trường và tu tại gia, làm sao có thể ác như vậy?”.

    Mấy hôm sau, ông GĐ cùng chị NT lên nhà tôi. Tôi bảo ông trụ thần nhìn lên bàn thờ Cửu Huyền nhà Mẹ vợ của ông, để tôi theo đó mà tìm hiểu xem sao. Nhìn theo ông, tôi thấy trên bàn thờ Cửu Huyền có bày 03 cái. sọ người!

    Tôi ngạc nhiên, chẳng hiểu gì cả: “Sao lại có sọ người trên bàn thờ?” Trụ thần nhìn ra chung quanh, tôi thấy ngoài sân trước, nơi có bóng cây cao - Lúc ấy ánh trăng đang chiếu lờ nhờ. có 1 số con vật hình thù rất lạ: giống chó mà không phải chó, chó sói cũng không! Mõm của chúng giống như mõm chó nhưng ốm và dài hơn, với những chiếc răng như răng nanh nhọn hoắc, nhe ra trông chỉ chực xé mồi!

    Thân chúng ốm và dài, lông màu trắng tuyết dài và mượt mà óng ánh dưới ánh trăng, chiếc đuôi dài chấm đất trông rất đẹp - Có điều nhìn vào đôi mắt đỏ ngầu sắc máu và những chiếc mõm nhe ra đầy nanh nhọn, ai thấy cũng phải rùng mình. Suy nghĩ mãi, tôi vẫn chẳng hiểu thực hư ra làm sao!

    Khi ông GĐ và chị NT chào ra về, chợt tôi nghe mắt

    trái của mình giật 3 cái rất mạnh và rõ ràng - Thường khi, mắt trái tôi bị giật như vậy là điềm báo có chuyện xui sắp xảy đến tức thì! Lo sợ, tôi gọi chị NT lại nhắc nhở chị và ông GĐ phải cẩn trọng khi đi đường, đồng thời cho Thiên binh theo hỗ trợ.

    Quả nhiên, lát sau chị NT điện báo cho tôi: Đang đi trên đường, ngang đoạn có đèn đường sáng sủa đàng hoàng - Tự dưng như có ai bịt mắt không thấy, đâm xe vào 2 người thanh niên đang đi bộ trên vỉa hè. May mà họ kịp nhảy tránh, quay lại làm dữ với chị NT - Chị chỉ biết năn nỉ mà xin lỗi. Lạ một điều, 2 người đi đường mặc áo trắng, màu trắng chói rõ dưới ánh đèn, thế mà chị không nhìn thấy thì thực lạ lùng!

    Vậy đó! Nạn đến thì vẫn đến, có Ơn Trên cứu mới qua, nhưng bàn tay khuấy đảo của Tà phép mới đáng sợ làm sao!... giờ đêm hôm ấy, tôi thiền định xin hỏi Điển: “Ba sọ người trên bàn thờ Cửu Huyền là gì?”. Chỉ nghe có một tiếng nói vang lên trong đầu, không biết của ai: “Thiên Linh Cái - tà độc đấy!”. Bản thân tôi cũng chưa biết Thiên Linh Cái là gì!

    Qua hôm sau, tôi tìm hỏi - Bạn bè mỗi người nói một kiểu! Có người bảo: ‘Phái ấy luyện phép bằng cách vào nghĩa trang đào trộm mộ những người mới chôn là đồng nhi hoặc gái đồng trinh, cắt lấy đầu đem về luyện”.

    Người khác lại nói: ‘Chính tôi đã được vào một nơi thờ cúng và làm phép của phái ấy: ngay giữa nhà là 1 sọ người sơn trắng treo trên một sợi dây. Trên bàn thờ có 2 cái sọ người sơn đen, mỗi khi có ai đến xin cầu hỏi chuyện gì, vị Thầy vào phòng thờ lắc chiếc sọ sơn trắng - Nó đung đưa trên sợi dây tới lui, xoay vòng, sang phải hay sang trái để trả lời theo một quy ước riêng nào đó của Giáo phái... Từ trong chiếc sọ phát ra tiếng “kọt kẹt” y hệt như tiếng người nghiến răng, nghe mà lạnh tóc gáy!”.

    Có người lại bảo: ‘Phái đó luyện phép bằng máu chó”. Chẳng biết đâu mà lần! Nhưng quả thật những huyền thoại mà tôi nghe được đã làm tôi sợ đến “mất hồn”! Tôi đâu muốn can thiệp vào chuyện của người, ngặt nỗi thấy khổ quay lưng sao đành, nếu tôi không giải kịp,

    bất thường biến mất gần như “ngay lập tức” như thế là bệnh do tà âm chứ không phải là bệnh thật!) Điều đặc biệt khi ta điều trị là: nếu bệnh do xác trần sau khi chữa thường không hết ngay - nhất là bệnh do nhiễm khuẩn - Với bệnh do “trúng tà”, khi tà được giải ra người bệnh liền trở lại bình thường.

    Hôm sau - ông GĐ lên nhà, tôi để cho ông trụ thần nhìn vào mặt bà Mẹ vợ - Qua đó tôi thấy âm căn của bà là. một yêu nữ tuổi độ 35 - 40, tóc cắt ngắn gần chấm vai, người to khỏe.

    Bực quá - tôi bắt nhốt Am Căn, sau rồi nghĩ lại thấy mình can thiệp sâu như thế là không nên, vì đó là chuyện “nghiệp quả” của gia đình, tộc họ. Tôi bèn thả Am căn

    chưa biết ông GĐ ấy đi về đâu - có thể bệnh viện chẩn đoán là bị trúng thực, đưa đi rửa ruột, tiêm kháng sinh các ra!

    Ngay tối đêm hôm ấy, tôi bị các vị Thầy tổ Thiên loại, rồi lại vô nước, vô đạm, nằm viện một, hai ngày - Tống vào bao tử bao nhiêu là thuốc men. Rồi cũng hết bệnh, nhưng lá Bùa và đội Am binh thì còn nguyên trong người, có Trời mới biết họ còn quậy đến đâu!

    Huyền thoại thì nhiều, nhưng sự thật đến đâu thì chưa ai biết. Điều mà tôi chứng kiến bằng thể Vía và cảm nhận của xác trần, thực hư cũng chẳng biết thế nào, chỉ có một điều rõ ràng là khi tôi giải Bùa, trả Binh gia về với Thầy tổ xong, bệnh nhân ngay lập tức trở lại bình thường, không còn thấy di chứng gì! (Đầu tiên - Tôi chỉ giải Bùa chứ không chữa bệnh, tôi dặn BN: Nếu sau 30 phút vẫn chưa trở lại bình thường thì điện cho tôi để tôi chữa bệnh thêm! Khi bùa hoặc phần âm được giải ra, các triệu chứng

    Linh Cái đánh cho một trận “vô tiền khoán hậu”, một trận kinh hoàng nhất trong lịch sử hăm mấy năm “chịu đòn thế” của tôi!

    ... Đang nằm ngủ “lơ mơ” - Tôi chợt nghe đâu đó khí lạnh chụp vào người, rét lạnh từng luồng - tứ chi và cả toàn thân rũ rượi, không còn nhúc nhích hay cử động gì được.

    Lúc đó, thần thức vẫn còn tỉnh táo, tôi biết được ngay: nếu không kịp phản công, ắt tôi sẽ chết tức thì, giống như 1 cơn “trúng gió đột tử” vậy! Vừa nhìn thấy 1 khuôn mặt Quỷ chờn vờn trước mặt, cùng với bàn tay to bè chụp lên đỉnh đầu, tôi tống ngay một đấm văng ra một bên, vùng dậy trói nghiến nhốt ngay vào KTT - Chưa kịp hoàn hồn. lại khuôn mặt thứ hai, thứ ba. Vía tôi thấy mình “tả xung hữu đột” y như một Võ tướng tài ba - Đánh bắt! Lại đánh và bắt!... Tổng cộng 12 tên “ác quỷ” với gương mặt bất cứ ai nhìn thấy cũng phải “thất tởm kinh hồn”!

    Xong - khi tất cả chung quanh trở lại im ắng, chỉ còn tiếng con thạch sùng tắc lưỡi trong bóng đêm, tôi mới ngồi dậy ôm mặt và khóc ngất!!

    Từ đó cho đến sáng, tôi không dám ngủ nữa. chỉ sợ nhắm mắt lại thì lũ quỷ ma kia lại lăm le mò tới tấn công. Dễ đã nghìn lần như thế, tôi có cảm giác mình như con thú hoang bị dồn đuổi cùng đường ở một góc rừng xa lạ, chung quanh chực chờ những phát súng thợ săn. Chỉ có 1 tôi - một mình tôi với tứ bề kẻ thù truy đuổi, đâu còn ai gi ữa gió bụi đường trần.

    Lúc đó, cho dù tôi có kêu cứu đến khản cổ cũng chẳng ai bên cạnh - Điển Ông mất tăm, các Đấng và Mẹ Bề Trên cũng im hơi lặng tiếng - Nỗi đau thương và oán hận ngập tràn!

    Chỉ vì để cho tôi một mình chèo chống như vậy - Nên trong những cơn oán thán tột cùng tôi đã “dẹp” bàn thờ Phật, giống như một cuộc cách mạng, vùng lên đảo chánh. Một thời gian ngắn thôi, rồi đâu lại vào đấy - Tôi lại tự nguyện cầm lấy “Thượng Phương bảo kiếm” đánh đông dẹp bắc, lại dấn thân vào giông bão một mình!

    Tôi vẫn biết một điều: Các Đấng cũng như Điển Ông không bỏ tôi đâu, họ vẫn lặng lẽ chứng kiến đấy thôi.

    ‘Kiếm báu nằm trong tay nó, thua thế nào được! Cho dẫu thua, khi nó gục xuống thì chúng ta lại dụng phép cho “cải Tử hoàn Sinh” dễ như trở bàn tay!”.

    Để rồi xem, rồi nó lại ngoan ngoãn đứng lên “Lảnh An Tiên Phong” cho mà coi! Cứ như chuyện Tề Thiên Đại Thánh, dụng phép thần thông bôn ba cùng trời cuối đất, nào hay chẳng qua được... ngón tay của Phật Tổ Như Lai!

    Bị 12 tên “Quỷ tướng” tiến đánh, tôi đau nằm ròng rã mất đúng 1 tuần lễ! Đến khi đứng dậy được, loay hoay như —gà mắc tóc”, chẳng biết phản ứng ra sao - Vọng động chỉ e “lợi bất cập hại”, còn im lặng chịu nhịn cho qua thì cũng. nhục!

    Nói thực ra thì tôi sợ đến khiếp, sau lần bị đánh đòn “tập trung” ấy - Sợ cho mình thì ít, sợ cho các con và ông GĐ lại nhiều! Đánh ta không được, họ xoay qua đánh chéo những người thân và “thân chủ” của ta, trở tay làm sao kịp?!

    Cảm giác bất an - tối đêm đó độ chừng 11 giờ hơn, tôi trụ thần đi xuống tận XN của ông GĐ ở Bình Dương, kiểm tra lại “tình hình trật tự trị an” xem sao!

    Đầu tiên - cảm giác của tôi là một sự bình yên, tĩnh lặng bao trùm toàn bộ XN. Cẩn thận hơn, Vía tôi bước vào văn phòng GĐ, nhìn lên bàn thờ Phật Bà. Lạ nhỉ! Không thấy tượng Phật đâu, chỉ thấy 1 bóng đen trùm kín mặt ngồi trên đó - Tôi sinh nghi, bước lại gần nhìn cho rõ hơn, chợt nghe từ trên đỉnh đầu phủ chụp xuống 3 luồng, chỉ nhẹ nhàng như luồng gió mát. ‘Mình trúng đòn rồi!” - Tôi lì lợm đưa hào quang Thượng Đế xuống bàn thờ, c ố

    tìm xem có Điển Phật Bà ở đó hay không - Vẫn một màu tối đen và pho tượng người màu đen với khăn trùm kín mặt.

    Lo sợ - tôi rời XN, trở về lại xác trần! Ngồi suy nghĩ, tính toán: “Vậy là tượng Phật Bà bị Thiên Linh Cái án tà phép vào rồi. Cũng phải thôi! - Vì tượng Phật ấy là do bên phía nhà vợ ông GĐ thượng Trang thờ. Làm sao bây gi ờ??”. Cùng đường, tôi ra thắp hương trên bàn thờ Phật, trình sự vi ệc lên Mẹ để xin người trợ cứu.

    Đến trưa hôm sau, trong khi đang nằm nghỉ trưa trên giường - Vía tôi thấy có 1 người phụ nữ lạ đi vào nhà, theo sau là 1 đứa trẻ ôm trên tay chiếc thùng giấy vuông vức - Đứa trẻ thận trọng đặt chiếc thùng xuống đất ngay cửa phòng khách, rồi cả hai quay ra, mất dạng. Vía tôi thấy mình chạy theo dõi tìm mà không thấy - trở vào, tôi thận trọng bước tới mở nắp thùng ra. Trong đó là 1 đứa trẻ bé xíu động chừng 2, 3 ký lô - Người không phải người, thú không ra thú, da nó nhăn nheo như cụ già trăm tuổi, hai mắt tròn xoe như mắt cá, đầu trọc lóc bóng loáng với vài ngọn tóc lơ thơ. Hỏi thế nào nó cũng chẳng trả lời, chỉ giương mắt nhìn tôi không chớp, ý không phải sợ cũng chẳng thấy có biểu hiện gì!

    Tôi ngồi ngẩn ra với bao thắc mắc trong đầu, xãy nghe Điển ứng báo: “Lệnh Chủ Thiên Linh Cái.” À - thì ra vậy! Ơn Trên lặng lẽ giúp tôi đây mà!

    Sực tỉnh - tôi cho cả chiếc hộp vào KTT để “bảo đảm an toàn”, xong trụ thần chuyển Vía lên giữa không trung, chắp tay xin được tiếp kiến vị Tướng chủ quản của phái Thiên Linh Cái!

    Ngay tức thì, tôi thấy một vị ăn mặc như Tướng nhà Trời bước vào - trông bề ngoài dung mạo “oai phong lẫm liệt, cốt cách phương phi” - Tôi cung kính mời ngồi, xong hỏi: “Có phải 12 Tướng đánh tôi lúc nửa đêm hôm trước là người của Ngài hay không?”. Người ấy gật đầu xác nhận!

    Tôi “dụng kế cầu hòa”, xin thưa: “Chúng tôi là người nhà Phật, chỉ cứu người chứ không hại người... Chỉ xin Ngài tha thứ cho nếu có lỡ xúc phạm đến người của Giáo phái - Chỉ vì ông GĐ đây là bạn của tôi, không thể làm ngơ! Thôi thì để chứng tỏ thiện chí của mình, tôi trao trả 12 vị Tướng đã bắt nhốt đêm qua, chỉ bởi họ nửa đêm thừa cơ đánh lén chứ tôi không hề muốn vọng động! Tôi chắp tay cầu xin Ngài ban cho một ân huệ: từ nay trở đi không cho phép ai trong giáo phái của Ngài động chạm đến chúng tôi cùng với người bạn là ông GĐ đây!”.

    Vị Thần ấy bảo: “Thưa cô, tôi không đủ tư cách để ngăn cản họ!” - Nói rồi quay lưng ra đi. Ức quá, tôi gọi lại: “Tôi có một vật muốn trình cho Ngài trông thấy, thưa Ngài!” Rồi nhẩn nha nói tiếp: “Hôm qua, tôi đi ngoài đường, tình cờ nhặt được, xin phép hỏi Ngài có biết vật này là gì hay không ạ?” - Tôi mở chiếc thùng giấy, vừa thấy hình hài đứa bé “Quái Nhân”, mặt ông ấy biến sắc hẳn, hai mắt mở to nhìn, không nói được tiếng nào!

    Tôi lại nói: “Tôi biết đây là vật báu của các người, nay nếu thuận theo yêu cầu của tôi, tôi sẽ xin trao trả - bằng không thì chẳng biết điều gì sẽ xảy ra!”.

    Ông ta ngần ngừ một chốc, tôi cho Thiên binh cất thùng giấy vào KTT, chỉ e bị ông ấy dùng phép mà cướp mất! Ông ta bảo: ‘Để tôi về hội ý lại!” Nói rồi đi mất.

    Chúng ta chuyển sang một mắc xích khác của câu chuyện - thập phần lý thú! Cho dẫu đã trải qua vài tháng rồi, mà nay ngồi viết lại lòng tôi còn thấy hồi hộp, lo sợ như lúc sự việc đang còn diễn biến vậy!

    Y hệt như chuyện Kiếm hiệp kỳ tình, những tác dù để chưng cho đẹp cũng vậy!”.

    Độ nửa tháng sau - chị NT điện lên, than với tôi:

    ‘Dạo này trong nhà liên tục xảy ra biến cố, không biết tại sao! Nhiều tiếng thị phi và xui rủi như cơm bữa.”. Tôi đến nhà chị, thấy tượng Quan Công vẫn còn nguyên chỗ cũ, bèn nói: ‘Nạn tai đến từ đây chứ đâu - Em đã nói rồi tác phẩm của Kim Dung hấp dẫn người đọc từ đầu đến cuối. Giờ chính tôi lại hân hạnh là tác giả viết ra tác phẩm và mà!”.

    Chị bảo: “Tiếc pho tượng đẹp quá, với mình cũng là người đóng vai diễn tuồng chính, mặc dù ngay trong lúc đó thì sợ đến “thất kinh hồn vía” - Thấy ông GĐ đau bụng quằn quại, nhức đầu và nôn mửa ta mới biết sức mạnh đáng sợ của Tà phép đến chừng nào!

    Nhà văn Kim Dung viết ra tác phẩm của mình bằng khả năng suy diễn, tưởng tượng, do dầy công tìm hiểu và nghiên cứu các chiêu thức, tình tiết. Còn tôi lại viết tác phẩm của mình bằng hai mươi mấy năm thực nghiệm từng trải, với những đánh đổi không nhỏ cho những kết quả lớn những cơn đau dài dặc triền miên và sự lo sợ bất an chỉ trang trải cùng đêm trắng, một mình!...

    Nguyên chị NT có 1 tượng Quan Công bằng gỗ rất đẹp, to độ chừng 4, 5 tấc gì đó - tượng tạc hình Quan Công đang ngồi trên lưng ngựa điều Binh ứng chiến!

    Khi tôi xuống nhà, thấy chị NT đang để pho tượng trên bàn thờ Thần Tài sát bên cửa ra vào buồng, hướng mũi giáo đang xốc thẳng vào cửa, tôi bảo: ‘Em nghe người ta nói không được để tượng quay hướng vũ khí về phía cửa như thế này, loạn động trong nhà dữ lắm! Vả lại nhà chị không có đàn ông, chị không được phép thờ Ông, cho nghĩ để chưng cho đẹp mà không thờ chắc không sao - Ai ngờ!...”. Chị em bàn cùng nhau, nhất trí đưa xuống Bình Dương tặng cho người em kết nghĩa là ông GĐ.

    Ông GĐ đem tượng về, bày chung trên đầu tủ trong văn phòng - cùng với 3 tượng nữa (cũng là tượng Quan Công). Ba tượng kia nhỏ hơn và là tượng tĩnh (không điều binh, chỉ đọc sách và chống gươm). Lên nhà tôi, ông mang ra khoe ảnh chụp 4 tượng đang bày trên đầu tủ. Vừ a trông thấy - Vía tôi đã nghe tiếng vó ngựa phóng sầm sập rất dũng mãnh, Ngài Quan Công ngồi trên lưng ngựa điều Binh, tay cầm thương đâm lia lịa vào ngay chính giữa khoảng trống (nơi đang bày 4 tượng vòng quanh). Tôi biến sắc: Thế này là tiêu rồi - “lợi bất cập hại”, đem tượng về để ở đó là có loạn động ngay tức thì cho xem!

    Trong lúc tôi đang ngồi suy nghĩ, xem nên giải quyết tình huống này ra sao - Chợt nghe trong đầu tiếng Điển Ông nói: “Bảo ông ấy đi tìm mua 1 viên thạch anh màu hồng hình quả trứng, để lên một hộp gỗ màu đen tương tự như gạt tàn thuốc, có chỗ tròn lõm ngay chính giữa - dựng đứng viên thạch anh để vào đó, xong tìm mua 1 chậu cây phát tài loại nhỏ xíu, trồng thành nhiều tầng hình chóp”.

    Tôi hỏi: “Để làm gì?” - Ông đáp: “Thạch anh màu hồng là thắng khí, toàn cuộc như vậy sẽ là thắng hội”.

    Ông còn giải thích thêm: ‘Thạch anh màu lam và màu tím là tĩnh khí, màu xanh là thanh khí, màu đỏ là sát khí, màu đen hay xám đen là âm khí hay còn gọi là âm pháp!”

    Nghe tôi nói, ông GĐ về mua ngay 1 viên thạch anh, thuê người mài y hình quả trứng!

    Vài hôm sau - quả nhiên ông GĐ gặp đủ thứ tai ương nặng nề liên tục kéo tới, khi ông ấy báo với tôi, tôi đành xuống tận XN ở Bình Dương để cúng giải giúp cho ông - và cũng để giải quyết cho tận gốc vụ án “Thiên Linh Cái”.

    ‘Một công đôi việc” - tôi cho cúng chiêu đãi âm vong, các vị Thần cùng lễ ra mắt Quan Ngài Thánh Đế Quân! Thấy tượng linh ứng như vậy, tôi bày ông GĐ xin phép thờ Quan Công luôn - Song bàn đi tính lại, chỉ xin “thờ vọng”, dâng lễ ngày vía 13 hàng tháng thôi... vì e thượng Trang đàng hoàng mà thờ cúng không nghiêm sẽ bị “Điển Ông” phạt!

    Trước đây đã một lần đích thân Ngài Quan Công về tại nhà tôi, phán bảo và chuẩn cho phép cậu Phòng (người em kết nghĩa của tôi) được “thờ vọng” Quan Thánh Đế Quân bằng cách may 1 túi vải để hình Quan Ngài vào đóng đinh treo trên vách, mỗi tháng đến ngày 13 sẽ đem ra cúng Vía Ông vào đúng Ngọ rồi lại đem cất vào y như cũ (vì cậu Ph chưa có gia đình, còn ở nhà cha mẹ).

    Tôi cho bày 03 mâm: một cúng các chư vị Thần, 1 cúng Quan Thánh Đế Quân - và 1 cúng âm phần! Đem tượng Ông ra lau để “tẩy trần” - Vía tôi ứng nghe Ông nói: ‘Để ta cho 1 hợp đồng lớn có tiền ngay làm lễ ra mắt tặng cho GĐ nha!” - Tôi nói lại, ông GĐ nghe qua mỉm cười.

    Vậy mà hơn một tuần sau, ông GĐ khoe với tôi: “Ông linh ứ ng quá, quả nhiên tôi vừa nhận được 1 hợp đồng lớn lại nhận tiền ngay!... Còn bao nhiêu công trình làm trước trả tiền sau, thu hồi công nợ cũng khó, kẹt vốn quá!”.

    Hôm đó - ngay khi tôi đang đứng khấn ở bàn cỗ cúng thỉnh Linh Điển của Ngài Quan Công - Vía nghe tiếng ngựa hí vang trời, nhìn ra ngoài cổng XN thấy một đoàn hùng binh cưỡi ngựa phóng vào, ăn vận toàn một màu đen.

    Điển Quan Ngài nói với tôi: “Ta cho mang 500 binh về trấn nhậm tại đây - Đó là lệnh Trên, để hỗ trợ cho ông chủ bảo an XN” - Tôi nói lại, ông GĐ vừa mừng vừa sợ: “Thờ Quan Công khó dữ lắm, lễ không đàng hoàng là bị phạt chết luôn đó!”.

    Suy nghĩ mãi, tôi đã biết căn cớ tại sao rồi - Nguyên Linh căn của ông GĐ là một vị Thiên Tướng nhà Trời, nay gặp lúc nạn tai dồn dập, Trên cho người xuống giúp. Đương nhiên GĐ là người tốt, nếu không thì cũng thua!

    Đã vài lần, tôi được diện kiến “dung nhan” vị Tướng Trời ấy, người cao to trắng trẻo, oai nghi lẫm liệt, mày rậm mắt sáng với đôi mắt to - trung thực mà ướt át, đa tình! Hèn gì chẳng gây nên nghiệp chướng khi đầu thai làm người trần thế .

    Nhân chuyện này - tôi lại phải dẫn dắt bạn đọc đi “lạc đường” một chút, rời khỏi cỗ cúng “đang hồi gay cấn” tại XN - trở về tại nhà tôi, nghe “kể chuyện đời xưa”:

    Xưa. xưa lắm - tận nơi Thiên Đình có 1 vị Thiên Tướng phải lòng một Tiên Cô.

    Luật Trời rất nghiêm, không cho hai người lấy nhau - Cả hai bèn dẫn nhau trốn xuống trần để được “nên chồng nên vợ!” - Tr ải qua mấy kiếp rồi không biết, chỉ bi ết rằng Tiên Cô kia bị vướng lục dục thất tình sa vào đường dữ, trở thành một âm căn Nữ yêu tinh - Ham muốn bạc tiền và danh vọng, dùng bùa chú hại chồng (kiếp này là Ngài GĐ) để mong thu tóm tài lộc cho riêng mình!.

    Vốn các Tiên nữ - vì hình dung xinh đẹp lại thích điểm trang nên xuống trần dễ bị lôi kéo thành ra hư hỏng, tạo nên nghiệp chướng nặng nề, hết kiếp từ Tiên nữ thành ra Yêu nữ! Lòng phẫn hận lại càng tạo thêm ác nghiệp sâu dầy, luân hồi trả vay kiếp kiếp, mất lối đi về đọa lạc không nguôi...

    Vị Thiên Tướng thì tốt, không có Am căn như ng vướng bẫy tình, chạy đường nào cho thoát! Về gặp tôi, vị ấy cúi đầu nhận tội - vì si mê Yêu nữ (đương nhiên yêu nữ có nhiều “chiêu pháp” hơn Tiên Cô) nên giờ ông GĐ phải gặp nghiệp chướng như vầy! Vị Thiên tướng ấy hiền lành và nhu thuận lắm - xin cúi đầu nhận tội và nhờ tôi giúp cho ngài GĐ thoát qua ách nạn.

    Như vậy - trong kiếp hiện tại, ông GĐ là Linh căn vị Thiên Tướng, còn người vợ chính là Yêu nữ âm căn – đang tìm mọi cách mưu mô và sử dụng bùa chú, âm pháp của mình để hại chồng, hầu tranh đoạt tài sản!

    ... Chúng ta trở lại văn phòng GĐ, để chứng kiến tiếp tục “màn hai cảnh hai” lễ cúng đang hồi hộp và hấp dẫn.

    Sau cỗ cúng các chư vị Thần, tôi “kính mời” vị đại diện cai quản giáo phái Thiên Linh Cái về! Tôi thưa: “Với tấm lòng của người nhà Phật cứu người chứ không hại người! Nay chúng tôi muốn xin dàn hòa, để cầu bảo an cho ông GĐ đây - cùng với tất cả chị em Nhân Điện của nhóm chúng tôi, từ nay trở đi không bao giờ bị giáo đồ của Ngài xâm hại nữa! Lộc lễ chúng tôi dâng lên, tiền bạc lộc thực cùng Linh vật của giáo phái làm quà, cầu xin Ngài nhận cho!” - Ông ta gật đầu đồng ý, để cho bảo đảm, tôi mời Mẹ Diêu Trì ngự về chứng kiến và Cửu Huyền Thượng Thiên! Vía tôi thấy Mẹ Diêu Trì cùng vị Thần chủ vọt một cái, lên đứng giữa trời, ông ấy xoay lưng cung tay xá bốn hướng - Họ nói gì tôi không nghe thấy, chỉ biết rằng mọi điều khoản đã thỏa thuận xong. Tôi đốt hóa tiền vàng, trao Linh vật, ông ta nhận lấy và. biến mất!

    Từ ấy đến nay - đã vài tháng trôi qua, ông GĐ cũng như chị em chúng tôi thảy đều “bình chân như vại”, không còn bị đánh liên tục như trước nữa! Đó là nhờ tấm lòng ân cứu của Bề Trên, mang tặng Linh vật để làm điều kiện đổi trao - xem như cứu một “bàn thua trông thấy” của tôi!

    Người xưa bảo: “Bứt dây động rừng”, hay “chọc nhằm ổ ki ến lửa”. Trong hai mươi mấy năm làm việc của tôi, chuyện như thế này là thường - Song bị 12 dũng tướng đánh úp giữa đêm khuya thì quả là chuyện “vô tiền khoán hậu”, thực là hổ thẹn cho các ‘Đấng mày râu”.

    Họ cho binh tướng mai phục ở nhà tôi, chị em Nhân Điện ai tới chơi ra về cũng bị đánh dữ, hỏi ra cũng đều được báo là bên phía Thiên Linh! Một mình tôi chịu “một cổ mấy tròng” vừa chiến đấu bảo an cho mình vừa cho ông GĐ, lại còn phía chị em nữa. Vậy mà - Tr ời ạ! Tôi chỉ là “Nhi nữ thường tình”. Quả là các Đấng đã đặt lên vai tôi một gánh nặng quá mức, phải không các bạn?!

    267


    Chuyện về ông GĐ đã khá dài, các bạn đọc nhiều đâm chán, e ngủ gục mất! Tôi xin phép chuyển sang đề mục khác vậy nhé! Chúng ta sẽ gặp lại ngài GĐ ở HMLK tập 3.

    NHẬT KÝ MÙA ĐẠI DỊCH • • •

    Gọi là ‘Nhật ký” vốn không ngoa chút nào. Hàng năm - vào đầu mùa mưa là lúc dịch bệnh lan tràn! Các Bệnh viện đầy người, Bệnh nhân tới gặp Bác sĩ lắc đầu, chuyển sang bệnh viện khác...

    Phần tôi - một Bà thầy vô danh ở nơi chốn hẽo lánh nầy cũng không ngoại chuẩn. Bệnh nhân liên tục tìm tới, chữa trực tiếp và gián tiếp qua điện thoại! Hai chiếc điện thoại trong nhà reo liên tiếp, đang ăn bỏ ăn, đang làm bỏ việc...

    Sau khi đưa điện chữa, nếu quên xả khí trọc từ người bệnh ra, tôi gần như bị lây bệnh tức thì vậy: nhảy mũi liên tiếp, ớn lạnh và đau nhừ cả người!

    Vi ệc trụ thần chữa bệnh liên tục qua điện thoại làm tôi rất nhược thần - đầu váng mắt hoa, cả người cứ lao đao, run rẩy như người bị trúng gió vậy! Chuyển thần qua điện thoại khó hơn chữa bệnh trực tiếp rất nhiều, vì phải tập trung thần khí 100%. Cả bệnh nhân và thầy chữa đều phải tập trung cao độ, chỉ cần một tiếng động khẽ cũng làm cho điện bị gián đoạn, tác dụng không đạt yêu cầu.

    Mùa đại dịch năm nay (2009) - Vừa xong một đợt cúm thông thường, giờ lại đến dịch cúm H1N1. Điều mà ngành Y tế lo ngại đã xảy ra: Dịch bệnh lây từ người sang người!

    BỆNH CHẨN

    Trong một ngày Tôi nhận 3 ca bệnh (qua đường điện thoại). Ba Bệnh nhân là ba người ở ba Quận Huyện khác nhau: Cô Trần Thanh Lan 29 tuổi ở ấp Xuân Thới Đông, Huyện Hóc Môn. Cô Nguyễn Thị Ngọc Hà 38 tuổi ở Quận Tân Phú - Và Cháu Bùi Thy Hồng Hải ở 73/2G khu phố 02, phường Tân Thới Hiệp, Quận 12.

    Ba ca bệnh phát nặng cùng ngày 01/08/2009 bệnh chứng như nhau - Tôi chẩn bệnh biết rằng họ không bị các loại cúm thông thường.

    Bệnh khởi phát như cảm cúm: Nặng đầu, đau cổ họng, hơi sốt và ớn lạnh. Bệnh chuyển nặng rất nhanh sau một ngày đêm: đau cứng cổ gáy, sốt cao và rét từng đợt, cổ họng đau khó nuốt, khó thở, nặng lòng ngực, bế tim - tay chân run lẩy bẩy, đau nhừ cả người và nhức toàn bộ các đốt, khớp tay, chân. Có hiện tượng co cứng gân cơ ở hai bên cổ và lồng ngực (khi cho điện chẩn vào lồng ngực và cổ tôi nghe thấy cảm giác co cứng của cơ bắp và gân, dây chằng.)

    DIỄN TTÉN CỦA BỆNH

    Thường khi bệnh mới phát Tôi chữa hai lần mỗi ngày

    Với bệnh nầy Tôi chữa đến 4 lần trong ngày đầu tiên:

    Buổi sáng chữa 1 lần, Tôi hẹn bệnh nhân một tiếng sau gọi điện kiểm tra lại: cả ba người bệnh đều chưa chuyển!

    Tôi chữa thêm lần hai, dặn bệnh nhân 03 giờ chiều gọi tiếp. Đến 03 giờ thì cô Lan điện báo đã nhẹ toàn thân, hết cảm giác co cứng gân cơ, đã nói được và bớt đau cổ họng hết sốt - còn hơi ớn lạnh trong người. Tôi chữa lần ba, hẹn 09 giờ đêm chữa tiếp!

    Riêng Cô Hà vừa thuyên giảm, buổi chiều đi học thêm lại trúng mưa - Vào lớp khoảng hơn 04giờ chiều Cô điện cho Tôi, báo là đang bị đau nhức cả cánh tay phải, đau đến không cầm bút viết được - cả người ớn lạnh, tay chân run lẩy bẩy, lồng ngực nặng và khó thở. Tôi cấp cứu tạm thời, hẹn Cô Hà tối về nhà chữa tiếp! Hơn 06 giờ

    Cô Hà về gọi cho Tôi, bảo các triệu chứng chỉ gi ảm có chút xíu rồi trở lại như cũ!

    Tôi chữa thêm lần nữa - Đến 10 giờ đêm cô Hà hết sốt và rét, cánh tay phải bớt đau nhưng vẫn chưa dứt hẵn, riêng phần sau lưng đoạn giữa cột sống thì đau nhức dữ. Tôi lại chận đau nhức thêm lần nữa - Qua sáng hôm sau, cô Hà hết đau, cả người gần như bình thường hẵn.

    Tôi cho chẩn vào hai huyệt giữa hai chân mày ở hai bên (huyệt Toán trúc). Nghe báo vẫn còn đau là biết bệnh chưa dứt hẳn, chỉ mới bị khống chế do điện ta đưa vào mà thôi! Như khi ta uống thuốc điều trị bệnh, thuốc còn tác dụng thì im, thuốc hết tác dụng bệnh trở lại - Cho đến khi nào hết vi khuẩn, bệnh mới hết hẵn!

    Khi các triệu chứng cấp tính đã dứt, Tôi chữa mỗi ngày hai lần sáng và tối, trong vòng một tuần lễ để triệt tiêu vi khuẩn.

    Phần cháu H ải cũng như hai người trước - Mẹ cháu là học viên Nhân điện của Tôi. Cha Cháu: Bùi Quang Thục trước kia là tiểu Đoàn trưởng tiểu Đoàn 28 Công binh - Cũng hay đến Tôi chữa bệnh.

    Cùng một lúc trong nhà ba người bệnh: Ông Thục nằm viện 175, con gái thứ té xe gãy xương đòn vai - Và Cháu H ải bị cúm. Phải nói là “Họa vô đơn chí”!

    Mỗi ngày Tôi chữa 3 lần, Chị Thục đặt tay lên đầu và các cơ quan bị bệnh của hai cô con gái - Tôi truyền điện qua Chị để chuyển sang cho con (Thanh niên c ấp tiến thường không tin vào các phương pháp truyền thần, Tôi phải “mượn tay” người Mẹ).

    Sau 3 lần điều trị trong ngày đầu, Cháu Hải hết sốt và rét, không còn đau thúc trong xương cốt, đã đi đứng cười nói và ăn uống lại bình thườ ng. Ngày đầu tiên khởi bệnh cháu chỉ nằm mê man trên giường.

    Chị Thục - Sau khi nhận điện từ Tôi để truyền sang cho con, liền bị khí trọc chuyển sang người: Xây xẩm choáng váng và đau nhức cột sống, tứ chi. Sau khi chữa cho 2 cô gái Tôi quay lại trục khí của người bệnh cho Chị Thục - Trọc khí ra khỏi cơ thể, Chị Thục trở lại bình thường!

    Đến sáng ngày thứ hai - nhà Cô Trần Thanh Lan phát bệnh thêm cậu Trần Văn Thạch, 23 tuổi - Cũng bệnh chứng y hệt như Chị của mình. Quá trình điều trị của Tôi cũng như 3 bệnh nhân trước!

    Có điều đáng lo sợ là ngay sáng hôm sau người chưa khỏe hẵn Cậu Thạch đã phải theo xe đi Phan Rang (nguyên Thạch làm Hướng dẫn viên du lịch - Chuyến đi đã được phân từ trước không thể thay người). Tôi lo lắng quá, nhỡ cậu Thạch sau chuyến đi nầy lây bệnh cho bao nhiêu người khác thì Tôi ân hận đến chết mất! Vì vậy - Tôi phủ trường cho Thạch 2 lần mỗi ngày để triệt tiêu vi khuẩn và ngừ a lây truyền mầm bệnh.

    Thường khi chữa bệnh, Tôi luôn suy tính một cách linh động để chuyển điện như thế nào cho phù hợp, hầu cho kết quả khả quan.

    Với Nhân điện - Người thầy chữa như một vị tướng điều binh, tướng giỏi điều binh thì binh thắng, tướng dở. bệnh ì! Chậm chuyển biến hoặc là không chuyển gì cả!

    Biết bệnh cúm kỳ nầy rất nặng, Tôi không thể xem thường, cho điện tấn công ráo riết - Dự tính là sau một ngày điều trị, nếu bệnh không chuyển thì phải lập tức cho đưa đi bệnh viện, e có biến chứng nặng nề trở tay không kịp. “ Phước Chủ may Thầy” - Cả 4 bệnh nhân đều hết sau một thời gian “kỷ lục”!

    Giá có thể cho bệnh nhân xét nghiệm trước khi Tôi điều trị - Có thể đã mở ra một hướng mới điều trị bổ sung bằng nhân điện cho các bệnh nhân bị bệnh cúm H1N1. Nhưng điều nầy không thể thực hiện vì khi phát hiện bệnh, các cơ quan Y tế lập tức cách ly người bệnh và cả gia đình, khoanh vùng. Lúc đó Tôi đâu còn có cơ hội chữa thử nghi ệm (đương nhiên chỉ chữa bằng Nhân điện, không dùng thuốc hay các phương tiện điều trị nào khác).

    Ngay khi bắt đầu viết những dòng nầy Tôi còn chưa biết mình có chiến thắng hay không, hay chỉ cầm cự - để cho dịch bệnh có cơ hội lan tràn.

    Vì những diễn tiến của bệnh rất dữ dội và nhanh chóng ngay từ khi mới khởi phát, Tôi phải viết lại ngay lập tức, kẽo sau nầy không nhớ được hết! Nếu những dòng

    nầy không đến tay các Bạn, có nghĩa là Tôi đã thất bại! Và cầu xin Các Đấng tha thứ cho tội ngu dốt, thiếu hiểu biết của Tôi.

    Trong suốt thời gian điều trị, Tôi khuyên bệnh nhân uống nhiều nước chanh, cam ( uống ấm, không dùng lạnh e bị viêm phế quản). Ăn uống bình thườ ng, cử thức ăn

    lạnh, có chất hàn - không ăn rau sống, bún tươi, các thứ hải sản như Mực, Tôm, Cua, Nghêu, Sò, ôc, Hến, hột Vịt lộn và thịt Vịt. Đề nghị cách ly ăn uống riêng và cử không tiếp xúc nói chuyện nhiều!

    PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ

    Trước tiên - Tôi cho một cột trường điện đi thẳng từ gi ữa đỉnh đầu (Luân xa 7 - Huyệt Bách Hội) xuống đến chân để tiêu diệt vi trùng. Sau đó cho trường điện bao phủ chung quanh người bệnh để chận không cho lây lan qua đường sinh hoạt.

    Cho điện vào não bộ (thần kinh trung ương) giúp lưu thông máu huyết và thần kinh, chữa chứng nhức đầu.

    Theo kinh nghiệm, Tôi đưa điện thẳng vào hai huyệt Toán trúc ở gi ữa hai bên chân mày. Điện chuyển vào xoang trán, xoang sàn, xoang mũi - Đi đến đâu giúp triệt tiêu vi khuẩn và làm thông thoáng đến đó!

    Cho điện đi vào mũi xuống khí quản, phế quản, vào các phế nang triệt tiêu vi khuẩn và làm ấm hai lá phổi để ngừa viêm phổi.

    Cho điện đi dọc cột sống lưng từ chót cổ xuống đến xương cùng, rút hàn khí chuyển thành năng lượng —> thành khói bay ra ngoài. Xong đưa điện làm ấm toàn bộ cột sống và vùng lưng. (Hàn khí tập trung ở dọc sống lưng, rút hết hàn khí ra, bệnh nhân sẽ hết rét).

    Cho điện vào mũi và họng hầu, triệt tiêu vi khuẩn và kháng viêm —> Cho điện mát vào làm hạ nhiệt trong cổ họng.

    Cho điện đi chầm chậm vào cơ thể từ đầu xuống chân giúp luân chuyển máu huyết và thần kinh, làm cho hết đau nhừ trong thịt da, cơ bắp và các khớp.

    Chận sổ mũi và chận ho. Theo quan niệm của ngànhY là tác động đẩy vi khuẩn của phổi, nên để chận ho từ từ - Nếu không vi khuẩn còn tích tụ sẽ làm bệnh phát tác lại!

    Phần Tôi, Tôi cho điện chận ho ngay từ đầu, bởi khi đã ho nhiều thì chữa cho hết ho là chuyện khó, vì các niêm mạc cổ họng bị kích ứng! Vi khuẩn thì Tôi cho điện triệt tiêu ngay tức thì và liên tục, không lo!

    Cho điện làm quân bình cơ thể, làm cho hết đắng, hết nhạt miệng, làm thèm ăn, làm ngủ.

    BIÉN CHỨNG BỆNH

    Sang ngày thứ ba, toàn bộ cơ thể của 4 bệnh nhân đều nhẹ nhàng, gần như bệnh đã dứt hẵn: hết sốt và rét, hết đau nhức các cơ và khớp, không còn đau hai bên thăn cổ, viêm họng cũng êm và diễn biến đặc trưng của bệnh cúm nầy là không bị sổ mũi. Các cơ lồng ngực và tim không còn co thắt nữa, lồng ngực nhẹ và hô hấp bình thường!

    Thế nhưng có biểu hiện lạ là hiện tượng y như bệnh hen suyễn: Kéo đờm, khó thở, thỉnh thoảng ho ra đờm đặc cứng! (Ở hai bệnh nhân là Cậu Thạch và Cháu H ải). Cô Hà thì nặng ngực khó thở.

    Rút kinh nghi ệm: Do triệt tiêu vi khuẩn, xác vi khuẩn chết làm nghẽn đường thở, trích lại thành đờm đặc.

    Là do quá trình sợ lây lan, tôi tích c ực cho điện triệt tiêu vi khuẩn nhưng không trục ra ngoài.

    Để điều trị chứng nầy, Tôi cho bệnh nhân hít vô thở ra bằng miệng 3 hơi dài và sâu, cho điện đẩy vi khuẩn từ trong các phế nang đi ra theo đường cổ họng - Tiên đoán là bệnh nhân sẽ ho trong khoảng 2-3 ngày cho hết vi khuẩn trong đường phổi. Sau đó cho điện triệt tiêu vi khuẩn không cho ra môi tr ường bên ngoài.

    Cậu Thạch mới chữa bệnh có 1 ngày, sáng hôm sau đã theo xe đi Phan Rang, làm hướng dẫn viên du lịch cho đoàn - Từ Phan Rang điện về cho Tôi mỗi ngày 2 lần, sức khỏe vẫn ổn. Đến sáng ngày thứ ba trở chứng ho như vậy! Cô Hà nặng ngực, khó thở nhưng không ho.

    Sau 2 lần điều trị trong ngày, sáng ngày thứ tư cả 3 bệnh nhân đều nhẹ, không còn khó thở. Sau 2 ngày thì dứt ho hẵn.

    Đến nay - Sau 1 tuần lễ chữa bệnh và tích cực triệt tiêu vi khuẩn, 4 bệnh nhân đều hoàn toàn khỏe mạnh bình thường. Phần Tôi rất sung sướng vì đã chiến thắng một căn bệnh khởi phát rất nhanh và nặng nề trong khoảng thời gian “kỷ lục” như vậy!

    Thầy Hải Thượng Lãn Ông ứng về cầm tay tôi viết ra những dòngnầy và cả trang bên!


    MẸ GIÀ

    Anh nghệ thuật do Thiếu Tướng

    Nguyễn Chu Phác gửi tặng Tác giả “Huyền Môn Lược Ký ”.

    MỜI CÁC BẠN ĐÓN XEM HMLK TẬP 3 - VỚI NHỮNG TIÊU ĐỀ HẤP DẪN NHƯ SAU:

    Bài thuốc Trường Xuân “Bát vị Linh căn” của thầy Hải Thượng Lãng Ông.



    Bài tham luận về “Linh hồn”: Tài liệu được đánh giá là một trong bốn bài tham khảo “có chất lượng” của buổi Hội thảo khoa học về Tâm linh do Trung tâm Nghiên Cứu Tiềm Nă ng tổ chức tại hộ i trường Quân Khu 7 ngày 20/09/2009 vừa qua.

    Đội quân “Ma chuột” tiến công!

    Sự thật đàng sau những “phép màu” của Bà thầy “cao tay ấn”!

    “Ma ma Phật Phật” - Lập lờ đánh lận con đen. Rước tà trợ chính, thay vì “trừ tà hộ chính”.

    Sách nầy in tặng - không bán! Để cúng dường công đức.

    Với tấm lòng Hoằng pháp, Độ sanh. Kính xin trọ n vẹn Công đức quy về cho Bách tín Vạ n dân để tăng trưở ng Phước điền, cầu cho Trăm Họ được Hòa bình, An lạc.
     

Chia sẻ trang này