Loading...

Huyền môn lược ký I

Thảo luận trong 'Sách, tài liệu...' bắt đầu bởi anhdung61, 11/6/18.

  1. anhdung61

    anhdung61 Member

    Tham gia ngày:
    10/5/18
    Bài viết:
    45
    Đã được thích:
    11
    Điểm thành tích:
    8
    Giới tính:
    Nam
    NGUYỄN THỊ THANH LAN


    HUYỀN MÔN

    LƯỢC KÝ


    SÁCH NGHIÊN CỨU, TRẢI NGHIỆM THỰC TẾ VỀ KHOA HỌC HUYỀN BÍ VÀ TÂM LINH


    NĂM KỶ SỬU

    2009


    THAY LỜI TỰA


    Chúng ta - đang sống ở cõi Người, nơi tượng trưng cho thế giới hữu hình. Những gì liên quan đến thế giới vô hình hay siêu hình, siêu thức – con người chưa với tay được mấy!

    Ngoài mộtt số sách nghiên cứu tìm hiểu, sưu tầm, khảo biên hay linh ứng cũng chỉ nói chung chung, thiếu minh chứng và cụ thể. Lắm khi dẫn dắt người đọc vào chỗ mơ hồ - tạo ra sự hoang mang, khó hiểu hay lo lắng, bất an ở những Người “yếu bóng vía”, Người có tri thức và hiểu biết dễ bài xích hoặc thiếu lòng tin…

    Dù vậy, ít ai có thể phủ nhận rằng vẫn còn tồn tại đâu đó chung quanh chúng ta một thế giới, khác với thế giới mà ta đang nhìn thấy, sờ mó và cảm nhận được!

    Quyển sách này là cả một quá trình dài 22 năm của một con người bình thường – hoàn toàn tỉnh táo, có tri thức, khôn ngoan và không mê tín hay cuồng tín – Được bàn tay của các Đấng ứng vào để cứu độ nhân sinh, xoa dịu nỗi đau của con người từ thể xác đến linh hồn, gieo trồng hạt giống Thiện vốn từ lâu bị thui chột bởi lòng vị kỷ.

    Bàn tay ấy không từ bỏ một ai, từ kẻ sang người hèn, từ người tốt đến kẻ xấu,người hiền lành đạo đức đến kẻ bạc ác vô tâm….

    Bàn tay xuất phát từ trái tim vị tha yêu thương đồng loại,nguyện đem sức lực bé nhỏ của mình an ủi và dìu đỡ muôn loài, từ trái tim của người Phật tử cho đi không hề toan tính đắn đo.

    Chưa có con người hay một sinh vật nào bước vào ngưỡng cửa nhà ấy trở ra mà không được chút gì cho mình – và những gì nhận được ấy không hề phải trả giá!

    Một người nguyên là một giáo viên chỉ thờ cúng theo gốc nhà đạo Phật, ít lui tới đình chùa lễ hội và cũng không chay tịnh quy y!

    Lặng lẽ vô danh ở một góc đời nhỏ bé, hy sinh cả hạnh phúc riêng tư của mình, từ bỏ mọi cơ hội tiến thân hoặc kiếm sống để khoác lên vai một trọng trách mà ít người biết được: làm sứ giả, làm nhịp cầu nối giữa các cõi âm và dương để xóa bỏ hận thù truyền kiếp, bắt vòng tay nhân ái, gieo trồng hạt giống thiện, xoa dịu niềm đau thể xác lẫn linh hồn…..

    Quyển sách này là kinh nghiệm thực tế kéo dài suốt 22 năm, trãi qua từng ngày, từng giờ một! Bạn có thể vì tò mò tìm đọc, hoặc muốn nghiên cứu, tìm hiểu một cách nghiêm túc cũng được! Tất cả đều là người thật, việc thật, không hề được phóng đại hay cắt xén,bóp méo, bẻ cong. Nhân chứng sống đa số vẫn còn nguyên đó – và Bạn có thể tùy tiện tra cứu lại – nếu muốn!

    Bạn sẽ tìm thấy ở đây những “Luật bất thành văn” về sự giao tiếp, hành xử và liên hệ giữa cõi vô hình và hữu hình. Những quy tắc bất di bất dịch – mà dưới bàn tay tự nguyện của tác giả, nó trở nên linh động, uyển chuyển, đổi thay và cảm hóa….

    Người xưa bảo: “Cây kim sợi chỉ không qua được lưới trời” – “Nhân quả báo đền” hoặc “Thiện ác đáo đầu

    chung hữu báo”…..Quyển sách này được viết lại chứng minh cho loài người biết rằng : tất cả vạn sự trên đời đều có luân hồi, quả báo – và tấm lòng của các Đấng vẫn rộng cứu muôn loài, những ai còn biết tìm đến, hướng về!!

    Muôn vạn đạo pháp trên đời chẳng qua được đạo tâm hay còn gọi là “lòng nhân đạo”.

    Hạt giống thiện khéo gieo trồng sẽ đem đến an lành cho cõi nhân sinh! Xin phép mượn bài viết trước đây (Ngày 17/5/2005) để giới thiệu về tác giả cũng như tác phẩm “Huyền Môn Lược Ký”.

    Tháng 7 – Mùa Vu Lan Báo Hiếu, ngày xá tội vong nhân – Xin hướng về Phật Pháp đảnh lễ! Xin cúi đầu cảm tạ bàn tay huyền diệu của các Đấng đã ân cứu chúng sinh! Cầu xin phước báu quy về Cửu Huyền Thất Tổ muôn kiếp vạn loài được siêu sinh tịnh độ……

    Tiết Lập Thu – Tháng Canh Thân – Ngày Nhâm Thìn – Năm Mậu Tý (Thượng Tam Nguyên niên kỷ)

    Huệ Nghiêm Chuẩn đề!

    Đệ Tử Diệu Thiện Kính Truyền !

    “ NAM MÔ THÍCH CA MÂU NI PHẬT ”


    CHỦNG TỬ PHẬT

    Tôi chỉ biết một điều rằng Tôi không phải là một Người thuộc về cõi trần hữu hạn này.Tôi từ nơi khác đến và đến đây không phải để sống kiếp sống của một người trần thế bình thường. Mặc dù Tôi cũng sinh ra và lớn lên cùng mọi người, cũng ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, yêu thương và sân hận như họ!

    Nhiệm vụ của Tôi là đem mình ra để chịu thế một ít khổ đau của người khác,nhờ đó họ được nhẹ nhàng hơn, và cũng bởi không phải là người của cõi thế này,tôi không cảm thấy phù hợp với nó. Tôi luôn luôn ốm đau, bệnh hoạn – bị dằn dặt bởi những suy tư, bất an rất nhỏ bé của đời thường – và Tôi luôn mất ngủ!

    Hằng đêm, những diễn biến của cuộc sống lướt qua như tia chớp trong cái đầu kiệt nhược của Tôi – và Tôi luôn tự hỏi: “tại sao lại như vậy?” Tôi bị điều khiển bởi động lực vô hình, bị nó chi phối, dồn nén – xoay chuyển và tạo tác, hành xử từng ngày, từng phút ………

    Những khi cuộc sống của Tôi bị dồn vào ngõ cụt thì họ lại hiện ra, an ủi và nâng đỡ tôi bằng đôi tay dịu dàng của người mẹ, bằng sự rộng lượng của người cha, bằng những vần thơ như chắp thêm đôi cánh cho kẻ bị lưu đày_ và tôi lại đứng lên, bước tiếp trên hành trình của một kiếp người...

    Tôi là một hạt giống trời gieo xuống mảnh đất trần thế đang bị cằn cỗi, xói mòn bởi lòng vị kỷ. Hạt giống ấy

    lớn lên thành một thân cây có bóng mát để cho người ta tìm tới, nghĩ lại trong chốc lát rồi lại đứng lên lê bước trên đường trần dài dằng dặc, đầy đắng cay và bất trắc!

    Bóng mát kia chẳng từ bỏ một ai, nó cúi xuống đưa bàn tay bé nhỏ của mình, nâng lên từ đất bụi, từ những uế nhiễm trần gian những sinh linh mang hình hài tạo tác của Đấng Vĩnh Hằng, đang bị xô đẩy ngửa nghiêng đau khổ, nạn tai và tật bệnh...

    Cũng chính vì là một bóng mát cho mọi người, nó phải chịu làm cây cộc đứng giữa đồng, dang mình trong nắng lửa. Nó gục xuống rồi lại đứng lên, và bởi không phải là một người của kiếp sống hiện sinh, nó không có bản lĩnh để đối phó với mọi hoàn cảnh bên mình, nó luôn luôn “khó ở” và tật bệnh!

    Cùng đồng hành với “kẻ tự nguyện bị lưu đày” này còn có một linh hồn khác luôn kề cận, an ủi sẻ chia, nhủ khuyên và định hướng khi xác trần chán chường và tuyệt vọng. Để rồi sau những đêm dài trăn trở, tôi lại đứng lên, làm tiếp những công việc không mang đến lợi nhuận cho mình…

    Tấm giấy thông hành tôi mang theo “nhập thế” còn có “quyền trợ giúp tha nhân”, nhưng quyền trợ giúp ấy không hề có hiệu lực với chính mình!

    Khi tôi muốn, tôi có thể tìm biết về người khác, một phần quá khứ hoặc tương lai, để từ đó giúp họ xoay chuyển mệnh trần. Song với chính bản thân thì tôi lại bất lực, những quyền năng tối thượng ấy không bao giờ định hướng cho tôi, nhưng nếu tôi sai bước, tôi sẽ bị đòn đau –

    rất đau!

    Có điều lạ là quyền năng cứu sinh ấy không hề xuất hiện để thỏa mãn sự tò mò hiếu kỳ, thử nghiệm hay xét nét. Nó chỉ hiện diện khi cần thiết, và không lưu lại dấu tích sau khi hành sự. Chỉ còn lại một tôi lơ ngơ đi giữa chợ đời, khờ khạo chán chường và không màng sự thế!

    Tôi biết trách ai đây về sự tồn tại chẳng bình thường của mình, ở nơi chốn mà sự hiện hữu được phân định bằng ranh giới thấp cao của “hiện vật trưng bày”, của danh vị, tiền tài và bổng lộc!

    Bạn bè bảo tôi: “Cô không chịu vận động đấu tranh với cuộc sống, thì thiếu thốn, tật bệnh là lẽ đương nhiên”. Hoặc: “Cô làm việc mà không thu lợi nhuận thì sống bằng gì?”

    Các em tôi thì nói: “Chị Hai mà làm gì. Cứ như người ở trên mây. Làm chuyện gì cũng ba bảy hăm mốt ngày là dẹp!”. Hoặc: “Tôi bạc đầu đi từ Nam chí Bắc chưa thấy ai khờ như cô, bị hết người này đến người khác lừa và lợi dụng mà không có ý kiến gì!”

    Đâu phải là tôi khờ khạo để bị người lợi dụng. Tôi biết, nhưng tôi không phản kháng đấy thôi! Thực ra tôi thương hại khi thấy họ chỉ biết mãn nguyện khi tranh đoạt của người khác làm của mình, mà không biết rằng có một thứ hạnh phúc cao hơn: “đó là hạnh phúc của sự ban phát, sự cho đi!”

    Giáo lý của nhà Phật có dạy rằng: “Hãy bố thí bằng đôi tay dâng tặng”. Tôi mãn nguyện khi tôi dâng tặng người khác đôi bàn tay và tấm lòng của chính mình. Mặc dù trong những đêm dài trăn trở tôi vẫn còn thấy xót xa khi người ta đến tìm nơi ngưỡng cửa nhà mình – và rời đi với những thứ mà mình không hề có được cho chính bản thân.

    Mượn nén hương trầm dâng tiến, tôi gởi vào đấy những đắng cay chua xót của một kiếp trần nhiều hệ lụy. Hương khói vô thường lãng đãng vòng quanh rồi tan loãng vào hư không trước mặt, liệu có đến tay các Đấng Thiên Toàn – Xin Người hãy ban cho tôi thêm một quyền lực: “Quyền tự cứu chính mình!”

    17/5/2005

    Huệ Nghiêm Chấp Bút!


    DẪN NHẬP

    HUYỀN MÔN LƯỢC KÝ


    Tôi bắt đầu viết lại hồi ký đời mình sau 22 năm bước chân vào ngưỡng cửa của thế giới tâm linh, với tay nắm bắt những khái niệm về không gian bốn chiều – mà với tầm nhìn hạn hẹp của thế giới con người vốn vẫn rất mơ hồ từ nhiều thập kỷ nay.

    Vận dụng cái ảo đưa vào đời thực, chuyển hóa đời sống con người – giống như bánh xe định nghiệp chuyển luân vô hình nhưng mỗi bước xe qua để lại dấu ấn hiện hữu trên mỗi số phận, rành rành như dấu tích hạt mưa rơi trên mặt đất kia, thấm sâu vào lòng đất – cho cỏ cây hoa lá lại đâm chồi...

    Việc đón nhận và truyền tải ngọn gió Huyền Môn làm xáo trộn đời sống bình thường của một người như tôi. Đó cũng là quá trình tu tập, khi một phần Linh tử dấn thân vào cõi nhân gian, khoác tấm áo thô mà truy tầm đạo lý.

    Sau 10 năm, một lần tôi đã viết tập hồi ký này- Để rồi trong cơn cuồng loạn tột cùng của nỗi đau thể xác và linh hồn, tôi đã đốt nó! Còn lại là những câu thơ như tiếng thét xé màn trời:

    “Lửa Luyện Ngục cháy đỏ từng hốc mắt Khói Thẩm Tra làm điên đảo hồn linh

    Phép Ngôi Cao nghiêng ngửa cả bóng hình Cơn Thử Thách dập vùi thân bèo bọt!

    OÁN tự thuở chào đời trong tiếng khóc HẬN từ ngày mang tấm áo thế nhân CĂM từ khi đời không chốn nương thân HỜN tự lúc sa chân vào ngõ cụt!”...

    Bây giờ, sau 22 năm – khi ngọn lửa Huyền môn đạt đến đỉnh cao nhất của nó, trở thành lửa Tam Muội quyền năng huân tập và hàng phục. Khi thể xác con người chỉ còn trước mắt “tịch tịch bóng tà dương” – Tôi mới có cơ hội nhìn lại đời mình, và viết lại bằng những hồi ức không còn sự chuẩn xác của thời gian!

    Tuy nhiên những người chứng kiến và nhận được “quyền năng siêu hình” vẫn còn đấy, bàn tay dịch chuyển định nghiệp còn nguyên dấu ấn – và còn đó một tôi bước lơ ngơ giữa lòng đời, lạc lõng và lạ xa ngay với cả thế giới loài người, đợi mãi thời khắc trút bỏ manh áo trần du, trở về cõi nào chẳng biết!...

    Tôi viết những dòng hồi ký để lại cho đời sau, con cháu hay ai đó vì tò mò hay hữu duyên tìm đọc, sẽ lại thấy cháy lên lần nữa ngọn lửa Huyền môn. Có thể từ đây, hạt giống Thiện lại đâm chồi. Rồi “cây ấy nên rừng, công đức vạn đời sau!”

    Tất cả những chi tiết, hoàn cảnh cũng như tên gọi đều là sự thực. Có điều tôi xin phép chỉ viết tắt tên một số người để không làm ảnh hưởng đến đời sống riêng tư. Danh xưng của các Đấng thì tôi vẫn viết y nguyên như

    vậy, để tôn trọng bàn tay tạo tác, và cũng bởi tôi không có tư cách để thẩm tra, cùng với một lời thề: “Tôi xin thề trước các Đấng tối cao cũng như với loài người hiện hữu rằng trọn bộ tập hồi ký này đều là sự thực”. Có thiếu sót chăng là do trí nhớ không còn trọn vẹn hoặc giản lược đi những chi tiết không nên công bố, nhằm để tôn trọng một ai đó hoặc một Đấng quyền năng nào đó!

    Bây giờ, xin mời gọi bước vào hành trình: Mở cửa “Huyền Môn”!...

    “Huyền Môn” mở cửa, ta bắt gặp được ngay bút tích người khai phá. Xin chép lại đây hầu Bạn, chút nỗi niềm tâm sự của “Lệnh Chủ” HUỆ NGHIÊM!

    VÌ AI!

    Ta vì ai xây, vì ai phá

    Vì ai mà thua thắng chiến trường này Đôi mắt đỏ những đêm sầu đất lạ

    Ta vì ai lưu lạc giữa trùng vây!

    Đêm trần thế như dòng kinh nhật tụng Chuông mõ cười bên làn điệu ê a Người sám hối lặng quỳ nơi chánh điện Ta xem đời khăn áo đợi mùa qua!

    Và bể khổ chừng sâu không cùng tận Lối sông Mê thuyền trẩy mãi dòng xa Thaáy bô vô nhöõng con ngöôøi chìm ñaém Ñôïi moät ngaøy caây nắng hạn trổ hoa!

    Chuyện thương hải tang điền nào ai biết Trả rồi vay- ấy là luật tuần hoàn

    Mây Định số vươn mình trên sóng Trược Nẻo Luân hồi mờ mịt dấu chân sang!

    Ta đứng mãi giữa trần ai, ngơ ngác

    Nhìn thế nhân – thương giận, giận rồi thương Và mong chờ, để thấy mình bất lực

    Đạo Hoằng khai hạn hẹp chốn Từ nghiêm!

    Cõi thế ấy vẫn muôn màu quyến rũ Rừng mê kia còn lắm kẻ sa chân Đêm mù tối biết bao giờ mới rạng Ta vì ai đợi xếp áo du trần!!

    Huệ Nghiêm Chấp Bút! (12/8/2004)


    CHUYỂN “SẮC LỆNH”


    Rằm tháng tư năm 1986. Đúng giờ Ngọ! Sau khi thắp hương trên bàn thờ Phật, như một sự thúc giục nào đó, tôi lấy bàn Cơ ra (Cơ là trò chơi tiếp xúc với phần âm bằng các con chữ. Đúng luật là phải hai người đặt mỗi người một ngón tay lên con trỏ thì Cơ mới chạy, và chỉ những người “yếu bóng vía” thì hồn âm mới nhập về được! Con trỏ làm bằng gỗ từ ván hòm lấy cốt người chết. Hồn nhập về sau khi cầu nguyện và đọc bài Kệ cầu hồn. Bản thân tôi có khả năng tự ngồi Cơ một mình và xem đó như một trò chơi thỏa mãn trí tò mò…)

    Con trỏ chạy lên dòng chữ “Phật Bà Quán Âm Bồ Tát giáng hạ!” làm tôi sợ hết hồn! Cơ nói: “con là người Nhà Phật, xuống thế với nhiệm vụ “độ đời”. Căn duyên đã đến lúc; từ nay trở đi con có khả năng huyền nhiệm xoa dịu nỗi đau cho người khác, hướng họ trở về nẻo Chân, đường Đạo! Tùy cơ ứng biến, tùy duyên mà hóa độ, Điển Nhà Phật trợ con hành Đạo độ đời!”

    Tôi lúc đó là giáo viên dạy trường Tân Thới Hiệp 1, vốn chỉ thờ Phật theo gốc nhà. Không phải là Phật tử thuần thành, chưa hề biết đến chay tịnh! Chỉ có điều tốt là tính hiền lành nhu thuận, có đức hiếu sinh, thích giúp đỡ người khác và không sát sanh hại vật...

    Ngay đêm đó, tôi mơ một giấc mơ lạ: “Tôi thấy mình đi trên một con đường quê ven bờ kênh lúc chiều nắng sắp tắt. Trước một ngã rẽ, tôi tần ngần: “Đây không phải là con đường của mình, đi lối kia mới đúng!” – Nước lớn tràn bờ chảy ngập chân cầu. Tôi thốt lên: “Mau lên, kẻo không còn kịp!”

    Chạy qua khỏi cầu, nghe thấy nhiều tiếng rao, câu chào mời từ những chiếc xuồng trái cây đủ loại bắt mắt trông đến mê!: “Mình làm gì có tiền để mua!”

    Trước mặt tôi, bước lên từ dưới bến là một người đàn bà độ 50 tuổi, cắp chiếc thúng bên hông, mặc quần đen, áo túi trắng cụt tay bằng loại vải thô. “Ai mua măng, măng cội tre già đây?!”. Tiếng rao động trí tò mò, tôi đứng lại nhìn. Những chiếc nhú tre (loại tược non trồi ra từ ngang thân cây chính) tôi hỏi: “Măng này có đắng không dì?” – “Trắng chứ! Luộc rồi thì nó trắng!”. Câu trả lời chẳng ăn nhập gì với câu hỏi!

    Bà chìa ra 1 túi những trái bưởi non bằng nắm tay đứa bé, vừa rụng khỏi cành trơ cuống, bảo: “Mua bưởi đi cô, bưởi ngọt lắm, 10 đồng 4 trái”. Tôi nghĩ thầm: “Chắc bà ấy nghèo lắm mới đi bán những thứ chẳng ai mua. Xem như mình cho bà 20 đồng, mua rồi lại kia vứt bỏ vậy!”. Tôi nói: “Bán cho con 20 đồng bưởi với măng”. Thấy bà cúi xuống loay hoay lượm nhặt, tôi chưa kịp đưa tiền thì giật mình tỉnh dậy…

    Trải qua bao nhiêu năm sau tôi mới hiểu hết ý nghĩa giấc mơ, tôi làm bài thơ “Lòng Mẹ”:


    LÒNG MẸ

    Sáng nay đi chợ mua quả bưởi Nho nhỏ mà sao vị ngọt đầm

    Con nhớ ngày nào đêm mộng thấy Mẹ về – cho quả bưởi chiều hôm!

    “Con trẻ! Đời gian lao còn lắm Gắng lên con nhé – ngày qua nhanh Măng “cội tre già” luộc rồi trắng Trãi đời cay đắng con trưởng thành!

    Vị ngọt ngày sau Mẹ định rồi Lòng thương con trẻ chẳng hề vơi Mẹ theo dìu dắt con từng bước Đừng khóc nghe con – Mẹ cận kề!

    Hương thắp đài cao, Mẹ ngậm cười Cúi đầu con khấn: “Mẹ hiền ơi” Con nguyện gìn lòng theo ý mẹ Giữ đẹp hồn con, cứu hộ đời.

    Nhân thế còn đau vạn kiếp người Chấp tay con khấn: “Mẹ hiền ơi!” Sinh chúng còn trầm luân bể khổ Mẹ ơi! Xin rộng dạ nương đời...

    Con khóc rồi con lại mỉm cười Quả bưởi ngày nao ngọt thắm môi Lòng Mẹ theo con từng năm tháng

    “Măng trắng” nhờ tay Mẹ sẵn bồi...

    27/7/1994.


    Vài hôm sau, trên bàn cơ có một vong linh về nói với tôi: “Tôi tên Nguyễn Văn Kính – 27 tuổi, người Cao Lãnh. Tôi chết do tự tử bằng thạch tín vì thất tình, giờ tôi đang đói, lạnh. Xin cô cho tôi chút cơm ăn và cho tôi trú nhờ trong sạp báo của cô!”. Vốn có lòng thương người, tôi chấp nhận (lúc đó tôi đi dạy 1 buổi, còn 1 buổi bán quầy sách báo).

    Vì bận nhiều việc nên tôi quên mất lời hứa của mình. Đến tối ngày thứ ba đi bán về độ 7 giờ tối, chồng tôi nói: “Ở nhà có mấy chuyện lạ quá! Đầu tiên là anh đang ngồi đọc báo thấy nguyên bàn thờ Phật rơi xuống đất, đổ vỡ tứ tung. Gần như cùng 1 lúc bé Tí đập bể cái ly kiểu quý của em, rồi tiếp theo bóng đèn tròn mới mua 2 hôm đứt bóng một cách gọn hơ!”. Tôi chợt nhớ lời hứa của mình, đi mua giấy tiền cùng bánh về khấn cúng cho người tên Kính. Khi đã nhận và cảm ơn, tên K xin lỗi tôi bảo ba việc lúc nảy là do ông ta làm vì tôi không giữ lời hứa của mình! Tôi nói: “Bàn thờ là nơi linh thiêng của nhà người ta ông giật sập thì là người vô đạo. Ông biến đi, tôi không tiếp xúc với ông nữa!”. Hồn nói: “Tôi muốn tạ ơn cô, mai cô mua vé số tôi cho cô trúng”. Tôi không

    bằng lòng, hồn lại nói: “Sáng mai cô sẽ có một niềm vui nho nhỏ. Hãy nhớ niềm vui ấy là do tôi mang đến!”

    Sáng hôm sau tôi đi dạy, chồng tôi đi làm ghé qua lớp học bảo: “Sáng sớm có con gà trống màu vàng to độ chừng 3, 4 kg vào nhà mình leo lên bếp gas nằm, anh sợ nó nhảy đổ chén bát nên đuổi ra rồi khóa cửa lại.”

    Trưa về đến nhà, Má tôi bảo: “Lúc nãy qua lấy gạo nấu cơm thấy con gà trống to nằm trên bếp má sợ nó nhảy đổ chén bát nên đuổi ra rồi khóa cửa”. Út Thảo em tôi nói hớt: “Con gà trống tàu màu vàng phải không? Lúc con qua mở cửa lấy cây chổi thấy nó còn nằm chình ình trên bếp, sợ nó nhảy đổ chén bát con đuổi ra rồi mới khóa cửa lại”. Ba người nói một câu nguyên văn như nhau! Tôi về, mở khóa cửa ra lại thấy con gà trống ấy nằm y chỗ cũ. Tôi sợ quá hét vang nhà, má với em chạy sang, con gà vẫn giương mắt nhìn mọi người không nhúc nhích. (Lúc đó trong vườn nhà tôi có nuôi 17 con gà lai Úc, nặng 3, 4 kg một con, những con gà trống không đời nào để cho trống lạ vào đất của mình).

    Tôi sực nhớ, bèn khấn: “Tôi biết là của ông tặng tôi, nhưng như thế là ăn cắp, là có tội đấy! Coi như tôi nhận rồi cảm ơn, ông đem trả lại cho người ta đi!” Tôi lấy cây xua lần nữa, con gà chạy mất!...

    Vì chuyện này, tôi lại làm bạn với hồn tên Kính, thường xuyên ngồi lên bàn Cơ nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất.

    Sau này tôi mới biết, hồn Kính là “Điển ông” giả như vậy để thử tôi! Sau này còn Thánh Minh rồi Thần

    Lam Sơn... nhiều người nữa, thảy đều là do Điển trên giả ra để thử lòng tôi mà thôi!

    Dạo ấy Phật Bà Quán Thế Âm rất hay về nói chuyện cùng tôi, bắt đầu thời kỳ “rửa xác”. Như thanh thép muốn làm thanh kiếm quý phải chịu rèn dập đớn đau, tôi bắt đầu chịu tra tấn, cực hình! Phật Bà thích về lúc nửa đêm, khi tôi đang ngủ chợt nghe có ai đó cấu một cái thật đau giật mình tỉnh giấc, tiếng vọng trong đầu: “Phật Bà ta về nè con”. Là tôi lại ngồi dậy rửa mặt cho tỉnh táo và nói chuyện...

    Trong thời gian này tôi chỉ thấy mường tượng là chiếc bóng chuyển động cùng với tiếng nói vang lên trong đầu. Tôi hỏi đáp bằng suy nghĩ cùng ý thức của chính mình, còn tiếng nói kia thì hoàn toàn không phải tiếng nói của tôi!

    Tôi phải nhấn mạnh cùng đọc giả rằng tất cả quá trình nhìn thấy, nhận biết và tiếp xúc của tôi cùng các Đấng trong suốt thời gian hơn 20 năm qua chỉ bằng “thể vía”, “thần thức” chứ không phải bằng mắt và đôi tay của người trần…


    THỤ ĐIỂN

    Đến ngày rằm tháng 10 năm ấy Phật Bà về hỏi tôi: “Người ta mặc đồ gì đi dự lễ hội”, tôi nói: “Mặc đồ đẹp”. “Thế thì hôm nay con tắm gội sạch sẽ. Giờ tí canh ba ta về đưa con đi dự hội!”

    Nửa đêm tôi được gọi dậy đánh răng rửa mặt thay đồ rồi ra phòng khách: “Con đừng mở đèn, để bóng tối như vậy đi!” Tôi mơ hồ thấy rất nhiều vị sư đắp y màu vàng bước vào ngồi xếp bằng lặng lẽ trước mặt tôi. Phật Bà nói: “Con đứng trước bàn thờ Phật, để tay lên khấn 3 lần: “Nam mô Quán thế Âm Bồ Tát – xin hiển hiện cho con thấy mặt” (Tấm ảnh Phật Bà tôi thờ được tạc bằng gỗ mun, không có đèn thì không tài nào thấy được gì)

    Tôi làm y lời, những tia chớp lằng ngoằng hiện ra giống như ánh chớp trên bầu trời. Ảnh Phật Bà xuất hiện khuôn mặt đến ngang mũi với tấm khăn xếp trên đầu bằng ánh sáng, chỉ trong tích tắc là biến mất. Tiếng thúc giục: “Tiếp tục lần nữa”. Lần này tia chớp vẽ khuôn mặt đến ngang cằm - “Tiếp tục lần nữa”: Hình tượng Phật Bà xuất hiện đến ngang bờ vai bằng ánh sáng, đẹp lộng lẫy huy hoàng trong tích tắc rồi biến mất, còn lại nguyên hình bóng tối....

    - “Điều kỳ diệu thứ hai! Ngửi đi con!” tôi chợt nghe một mùi hương thanh khiết nhẹ nhàng lan tỏa tràn ngập cả phòng khách, thứ mùi hương chưa từng nghe thấy trong đời.

    Phật Bà nói: “Ta mang đến cho con mùi hương hoa

    Mạn đà la-Hoa cõi Phật đấy!”. Tôi sung sướng hít lấy hít để... Phật Bà lại bảo: “Điều kỳ diệu thứ ba – con xòe tay ra!” Tôi bướng bỉnh nắm cứng nắm tay lại! Tự nhiên có một lực vô hình nắm bàn tay đưa về trước mặt bẻ cho thẳng ra từng ngón. Phật Bà đặt vào lòng bàn tay tôi một mặt chữ Vạn bằng vàng bé cở bằng ngón tay: “Đây là Phật ấn! Của con ta trả lại cho con – để con có quyền năng hành Đạo hộ đời. Phật ấn bằng vàng khối Mễ Tây Cơ đấy!” Tôi hỏi tại sao, Người đáp: “Vì xứ Mễ Tây Cơ trong lòng đất có nhiều mỏ vàng, chúng ta lấy nó để tượng trưng cho sự trường cửu của Nhà Phật! Kinh đô của Nhà Phật nằm ở Kompong Chàm – nhưng chúng ta không chọn người K.P.C làm người Nhà Phật vì họ còn man rợ và u mê lắm!” Phật Bà lại bảo: “Nào, há miệng ra!” Lực vô hình lại bắt tôi há miệng, lè lưỡi – Phật Bà lấy chữ Vạn để trên đầu lưỡi, tự nhiên tôi làm động tác nuốt xuống cổ! Xong rồi Phật Bà bảo tôi quay lưng lại. Đột nhiên như có ai đó cầm bút vẽ vòng tròn nho nhỏ rồi lớn dần lên, nhồn nhột trên lưng, cảm giác là thực!

    P.B lại nói: “Từ hôm nay trở đi con muốn chữa bệnh thì chữa, muốn xem số soi căn cứ làm. Nhưng phải nhớ một điều ai đang bị Cửu huyền hành hay đang trả nghiệp thì đừng có nhúng tay vào – Bị đòn thế đau ráng chịu nghe!”. Rồi P.B lại nói: “Con là chim én mang mùa xuân hạnh phúc đến cho mọi người. Từ nay ta gọi con là Én Mùa Xuân” nghe! Pháp danh của con là Diệu Thiện, nhớ cho kỹ!”


    RỬA XÁC

    Từ đêm ấy trở đi, mỗi lúc P.B về lại nghe tiếng gọi từ thinh không: “Én mùa xuân. P.B ta về đây”. Sau gần 10 năm tôi có làm một bài thơ nói về danh hiệu mà P.B đã ban cho. Bài thơ có tên “Én mùa xuân khóc mùa đông”

    Những ngày tháng kinh khủng đối với tôi đã bắt đầu, “quyền năng” đi cùng với “khảo đảo” hay còn gọi là “Hành Điển, hành xác, hành căn”... Quá trình “măng luộc rồi trắng” trải qua từng ngày, thậm chí từng giờ, từng phút một!...

    Ba năm đầu tôi không ngủ được chút nào, cứ gần nửa đêm, vừa chợp mắt P.B lại về gọi dậy nói chuyện gần 1 giờ đồng hồ, khi người đi rồi là tôi thức luôn đến sáng. Những liều thuốc ngủ cứ tăng dần lên và không còn tác dụng. Cả đêm tôi đau đớn từ đầu đến tận chân, tưởng chừng xương gãy ra từng khúc. Sáng sớm, thường xuyên không đứng được vững vàng, có khi chống tay xuống đất mà lê từng bước đi làm vệ sinh buổi sáng.

    Tôi cứ y như tên tù bị đem đi tra tấn xong mang về vứt nằm ở 1 góc xà lim, có lúc đau nằm liệt một chỗ không tài nào day trở, phải lên tiếng kêu ai đó kéo đứng lên mới ngồi dậy được!

    Vào tháng 9/1996 vong hồn tên Kính biến mất, thay vào đó là 1 hồn xưng là Thánh Minh, Đệ tử của Quan Âm Bồ Tát. Người tầm thước, da ngâm đen, đầu cạo trọc, tính tình hiền lành nhẫn nhục! Người ấy nói tôi và họ tiền kiếp là hai vợ chồng nên P.B cho về trợ duyên cho tôi hành Đạo. Từ đó, hồn T.Minh ở cùng tôi 24/24. Và tôi bắt đầu chữa bệnh cho mọi người. P.B nói: “Mỗi phần linh căn độ trần theo một cách khác nhau. Có người vẽ bùa, khoáng nhang, cạo gió giác hơi, hoặc cho uống nước lạnh...Con là người trí thức ta truyền phép bấm huyệt, chuyền nhân điện trị bệnh cho có khoa học, kẻo người ta cười con mê tín”

    Dạo ấy, tôi chưa biết cách mở luân xa, thu năng lượng bên ngoài. Chỉ dùng khí lực nội tại nên chữa bệnh xong, người rất nhược sức, có ngày chữa 8 người, tối về nằm dã dượi như xác chết, sáng hôm sau phải bồi dưỡng nhiều mới lại sức!

    Hơn 20 năm chữa bệnh, tôi không hề lấy tiền bạc của ai vì nghĩ rằng quyền lực siêu nhiên về trợ mình cứu người vô điều kiện.

    Mỗi lần bắt mạch chẩn bệnh, tôi lại hỏi trong đầu và chờ nghe tiếng nói báo trong tai về bệnh chứng. Lời tiên đoán của tôi rất chính xác, người ta hay nói: “Cô ấy chẩn bệnh còn hay hơn B.S – đi bệnh viện làm đủ thứ xét nghiệm mới biết, cô chỉ đặt tay lên là nói danh dách!” hoặc tôi chẩn bệnh xong cho bệnh nhân đi khám lại, kết quả y hệt như lời tiên đoán của tôi! Chẳng ai biết rằng đó là lời phán đoán của “các Đấng”...

    Và tôi bắt đầu biết soi căn, xem bói, tiên đoán số mệnh, ứng biết sự có mặt của các Âm phần hoặc Căn Điển. Tôi làm nhịp cầu nối giữa người Âm và Dương, làm sứ giả cầu hòa hoặc ứng cứu. Những bệnh khó chữa, thuộc dạng B.V không tìm ra bệnh và không điều trị được tôi tìm nguồn cội ở phần Âm để điều đình, năn nỉ cầu xin hoặc “hối lộ”, hoặc xin các Đấng về trợ cứu...

    Từ đây trở đi, tôi xin phép viết xen kẽ về những trường hợp điển hình đã được các Đấng giúp cho thoát qua khỏi nạn tai, tật bệnh hoặc âm tà. Có thể tôi không còn nhớ chính xác địa chỉ của từng người, song những nhân chứng sống vẫn còn – Năm 1994, khi bị Điển hành quá, tôi không chịu nổi, đã đốt toàn bộ tập hồi ký, sổ ghi tên bệnh nhân và địa chỉ. Nay còn nhớ vài trường hợp, tôi kể lại hầu Bạn vậy nhé!


    2. THỰC HÀNH CỤ THỂ

    Cậu Nguyễn Văn Tuyên, 20 tuổi. Bộ đội tiểu đoàn Phòng không. Đơn vị B.Đ đóng gần sạp báo của tôi! Tuyên bị sưng phù cứng và tím ngắt cả 2 chi dưới. B.V 175 chẩn là bị bệnh hoại huyết - Đề nghị cắt cơm nằm viện 1 tháng rưởi. Tôi đã chữa hết hoàn toàn sau 7 ngày (7 lần điều trị).

    Cậu Trần Văn Công 19 tuổi, tân binh Phòng không, bị phạt chạy 3 vòng sân lên cơn đau tim tắt thở, sùi bọt mép và co cứng tay chân. Khi tôi đến BN đã nghỉ thở nửa giờ đồng hồ rồi, tôi làm cho Công tỉnh lại sau 15 phút!

    Đơn vị trả Công về nhà. Hai cha con có tới sạp báo cảm ơn tôi. Về việc này mà cậu Mạnh (Y sĩ Tiểu Đoàn Phòng Không) ra năn nỉ tôi “Chị muốn “Bái Tổ” sao tôi cũng chịu, xin chị truyền nghề lại cho tôi với”.

    Cậu Nguyễn Văn Lĩnh 20 tuổi, BĐ Phòng không. Lĩnh chơi banh bị bong gân bàn tay phải, chỉ 15 phút sau đã sưng cứng và tím ngắt mu bàn tay - Tôi chữa hết mọi triệu chứng sau 5 ngày.

    Cậu Thắng: là trung úy Pháo binh. Mẹ Thắng bị tà nhập, đã đưa đi điều trị bệnh viện Bạch Mai và Việt Pháp mà không khỏi, điện vô: “Mẹ hấp hối, con về gấp”

    Tôi xin Điển về chẩn, nói: “Ngày trước, thời Hà Nội bom đạn có 1 người đàn bà quê mặc bộ bà ba đen chết ngay trước cửa nhà cậu, kế bên có bụi cây gì cao lúp xúp có trái nho nhỏ. Mẹ cậu là người nhìn thấy trước tiên”.

    Thắng nói: “Đúng rồi, bà ấy ở đâu đến không biết, bị đạn chết kế bên bụi cây mâm xôi, mẹ em đi chợ sớm phát hiện la lên kêu mọi người, lúc đó kiến lửa đã bu đầy”

    Aáy thế mà mười mấy năm sau vong hồn ấy chưa siêu thoát, quay lại bắt hồn người đã có công đưa xác mình đi chôn cất.

    P.B giận quá, bảo tìm 2 đồng xu tiền điếu quét vôi về chôn tại gốc cây mâm xôi, triệt âm phần luôn chẳng tha! (Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng PB cho Điển “triệt vong”)

    Lại truyền: Trong vòng 7 đêm, mỗi tối dìu mẹ ra trước bàn thờ Phật thắp hương xin P.B, xong lấy mực tàu vẽ hình chữ “Vạn” trên lưng để giải âm khí.

    Bảy ngày sau mẹ cậu Thắng khỏe mạnh hoàn toàn, hai năm sau vào Nam cưới vợ cho con có ghé tặng quà và cảm ơn tôi. Cậu Thắng hiện vẫn còn ở cùng gia đình ở Hiệp Thành!

    Cô Trúc tuổi độ chừng 30, thôi chồng có 3 con, hiện đang ở với người cha ruột, mẹ mất. Một hôm cô tới hỏi tôi: “Ba em dạo này có nhiều hành động kỳ quặc làm em sợ quá, chị xem dùm tại sao”. Tôi xin Điển rồi báo: “Nhà chị có một gốc cây to đã cưa, đứng trong nhà nhìn ra nằm ở góc bên phải, chỗ chị hay quét rác tắp vào đó! Có 1 con quỷ 1 giò nhập vào ba chị làm cho ông đau chân đi khập khiễng. Nó xui ông có hành động loạn luân muốn cưỡng bức chị. Gần đây ông mua một con dao dài và sắc để trên đầu giường, sẽ dùng nó để cưỡng bức chị vào đêm tối trời không trăng cuối tháng!”

    Chị T. Khóc mùi và kể: “Chị nói đúng em mới dám khai. Oâng cứ theo rình nhìn em lúc em tắm, em hỏi thì ông nói đi kiếm con gà con vịt - chân không hề có tật, tự nhiên rồi đi cà nhắc. Ông mới mua một con dao xắt chuối dài (mà ở nhà đâu có nuôi heo) ông cứ lấy dao ra mài, nói là để rình ăn trộm. Lúc đó ông cứ nhìn em con mắt lóe lên tia dọa nạt làm em sởn cả gai óc! Tối ông đuổi mấy đứa nhỏ qua hàng xóm coi ti vi, đến nửa đêm mới cho về, còn em ông nói: “Đàn bà không được đi lung tung, leo lên giường nằm”...Kể rồi cô T ôm mặt khóc ngất: “Chị cứu em, không em chết mất!”

    Lúc đó, năng lực bản thân của tôi còn yếu tôi phải tiếp xúc âm vong năn nỉ, xin hối lộ 1 con vịt quay, con quỷ rời đi nơi khác, cha cô T tính cách trở lại bình thường, chân hết đi khập khiễng!

    Cậu Thành làm CN công ty SaTiMex, gần chỗ tôi bán báo, bị té do gãy cổ xe gắn máy, chấn thương phổi đã 1 tuần chích và uống thuốc mà không bớt. Đau ngực, ho ra máu và nói không ra tiếng!

    Ngay lần đầu truyền điện, Thành nhắm mắt mà nhăn nhó ra vẻ đau đớn lắm. Tôi hỏi: “Làm gì như ma nhập vậy?” T nói: Chị có xem phim “Bao Công xử án”, lúc Triển Chiêu đánh võ chị nhớ không? Em nhắm mắt mà thấy ánh sáng xẹt qua xẹt lại trong đầu sợ bắt rùng mình luôn!” Tôi chữa sau 5 lần (5 ngày) cậu Thành hết đau hẵn!


    3. LIÊU TRAI TÂN THỜI

    (HAY SỰ XUẤT HIỆN CỦA PHẦN LINH CĂN THỨ I)

    Từ dạo Điển về nắm tay tôi độ đời, tôi bắt đầu bị tra tấn cả phần hồn lẫn phần xác. Thần thức bị nhiếp giử, đau đớn cũng không được kêu rên, càng than van thì đau đớn càng nặng. Bệnh cứ như giả đò, uống thuốc vào đau lại càng tợn! Để vậy mà chịu, đến lúc tự nhiên hết thời thôi… Chỉ cần có tư tưởng oán hận là bị đòn nặng nề ngay!

    Có lần tôi bị nhức răng, cái răng nanh phía bên phải không hề bị sâu ăn hay có va chạm gì. Từ 10 giờ sáng tự nhiên phát đau nhức liên tục đến ba giờ chiều, không ăn cơm được! Tôi khóc van xin Mẹ Quan Aâm cứu, Mẹ về bảo: “Dậy rửa mặt ăn cơm đi rồi hết”. Tôi ức quá bảo: “Không hết con không ăn!” Thế là P.B bỏ đi, cầu xin mấy cũng không về nữa. Đến 10 giờ đêm, P.B về bảo: “Ta cho hết đau, dậy ăn cơm đi”. Thế là cơn đau dứt hẵn, không còn chút di chứng nào!...

    Tôi chữa bệnh, người ta hết bệnh tôi bị đau trả! Sợ nhất là người dữ, bất thiện hoặc bị đau do Cửu Huyền hành hay bệnh do trả căn, trả nghiệp (những bệnh này thuốc men của BS không có tác dụng). Chữa đôi lần không thấy bớt tôi phải cầu xin tiếp xúc với các Đấng Linh căn của xác trần hoặc Tổ tông của BN để năn nỉ xin tha. Họ có bằng lòng buông tay thì tôi mới chữa được, nhưng chữa cho những người này tôi bị hành rất dữ - Đến nổi có lẽ đây là lần đầu tiên trong mấy mươi năm tôi mới có can đảm nhìn lại đời mình!..

    Thường đêm tôi đau đớn toàn bộ cơ thể, tưởng chừng như các đốt xương trong người chỉ cần nghiêng trở là sẽ gãy ra từng khúc. Đau đến tận cùng tôi r¡i vào c¡n mê thi¿‑p rã rÝ‑i trong chÑ‑c lát, gi‑t mình thức dậy lại đau...

    Có lần vào nửa đêm trong lúc mê mệt, tôi nghe trong người dội lên tiếng nấc nghẹn ngào - Mở mắt ra tôi thấy Thánh Minh ngồi ở một góc giường gục đầu khóc, đôi vai rung lên từng cơn. Tôi khẽ cựa mình, tiếng khóc nín bặt. Ông nói: “Anh thương em lắm nhưng không có cách nào cứu được em”

    Tôi cần phải mở ngoặc ra để giải thích với đọc giả rằng: đêm tôi ngủ riêng với các con chứ không nằm cùng giường với chồng! Vợ chồng tôi sống không có tình yêu và hạnh phúc, sau 10 năm chung sống, chúng tôi ly hôn (1983-1993). Một điều nữa cũng cần nói để bạn đọc thông cảm và đỡ bị “sốc” khi theo dõi chuyện là tôi và Điển Oâng từ ngày đầu tiên đến giờ vẫn xưng hô và giao tiếp với nhau y hệt như hai vợ chồng trần thế. Thậm chí trong buổi cơm, tôi gắp 1 món ăn vẫn thấy ông đưa đũa gắp món khác, và ngồi riêng chứ không nhập vào xác của tôi!

    Đêm ngủ, ông mặc quần vải đen lưng bằng dây rút. Có lần nửa đêm mùa hè trời nóng đến kinh người, ông giở màn chui ra, một phút sau trở vào, tôi vẫn đang nhắm mắt, bỗng nghe những giọt nước từ đâu bắn tung tóe, tôi la lên và mở mắt thấy ông đang dùng 10 ngón tay lùa vào mái tóc còn ướt sủng: “Nóng quá, dội chút nước cho mát!” (thể vía cảm nhận được những điều linh hồn làm, nhưng xác trần cũng cảm giác y như vậy, và đương nhiên những giọt nước ấy không thể nhìn thấy bằng mắt trần!)

    Ông thích mặc áo sơ mi trắng cổ cồn tay dài cài kín mít. Quần tây đứng ống xếp ly màu nâu xám! Có lần ông mặt một chiếc áo bằng loại vải lụa dày, mịn màng màu trắng và chiếc quần Aâu xám đen vãi cũng dày và mịn. Ông hỏi tôi: “Anh mặc bộ này có đẹp không?” Tôi bảo: “Đàn ông ai lại mặc đồ bằng lụa vải mịn thế kia, trông đỏm dáng quá!” Từ đó ông không bao giờ mặc bộ đồ ấy nữa…

    Hàng ngày vì hay bệnh nên tôi không có sức khỏe, hễ làm việc nặng chút xíu là mệt thở không ra hơi, những lúc ấy tôi năn nỉ: “Giúp em với, em mệt quá rồi” Oâng nhập vào tôi làm việc - Lúc đó sức khỏe của tôi gấp 2, 3 lần và làm không biết mệt...

    Lúc nhàn rỗi tôi bảo: “Bịt mắt em đi nào” tôi nhắm mắt lại, chừng 15 giây sau thì không tài nào mở mắt ra được nữa, đến khi chịu thua ông thì thôi! Hoặc tôi nói: “Đè cứng hai chân em coi”. Để yên 2 chân duỗi thẳng ra chừng 15 giây sau là bị đè cứng như khúc gỗ không giở lên được. Đến khi tôi cố sức giật mạnh hai chân mới thoát.

    Có lần Mợ Út của tôi nghe kể bảo: “Mày nói xạo! Bảo ổng xô tao té thử coi, làm được tao mới tin”. Mợ đang ngồi trên võng bỗng nhiên ngã người dần dần đến khi lăn ra võng thì vùng đứng dậy chạy mất, nói với Má tôi: “Trong người con Lan có ma, chị Hai ơi!”

    Vốn tôi rất thích thơ và đã làm rất nhiều thơ từ năm 17 tuổi, ông cũng hay làm thơ tặng tôi: thơ thổ lộ tình yêu, thơ giảng Đạo, khuyến tu... Lúc đó ông đọc cho tôi chép lại và đề ở dưới là “Huệ Nghiêm chấp bút”. Riêng có thơ tình ông không đề tên tác giả. Chính vì vậy trong những quyển thơ của riêng tôi, có 1 số bài ý tứ lạ lẫm là thơ của ông.

    Bây giờ, tôi chép lại tặng bạn đọc mảng thơ của ông nghen! Nhưng ở đây tôi chỉ chép lại thơ tình thôi, còn thơ Khuyến Đạo xin để vào phần sau, khi hạt giống đã đâm chồi!...

    TÌNH TỤC – DUYÊN TIÊN

    Có một đêm, một đêm trăng sáng lắm Trên cõi Trời cô quạnh, giữa tầng cao Thánh tôi buồn, ai biết tại vì sao!

    Vì thánh nhớ người yêu nơi cõi thế!

    Và len lén chờ mọi người ngủ cả Thánh xuống trần, ôi thương kẻ tình si

    Đứng ngoài hiên Thánh đợi mãi, sương rơi Vai áo lạnh, hề chi – nhưng hồn lạnh!

    Thánh đợi mãi, đợi hoài trong thinh lặng Lá vàng rơi xào xạc, lá vàng rơi!

    Cửa nhà ai vẫn khép kín ngậm ngùi Thương cho khách tình si hồn lận đận...

    Thánh đợi mãi, đợi hoài rồi Thánh giận Đem phép thiêng phá khung cửa dương trần Người yêu kia, còn say giữa giấc nồng Thương mà giận, giận mà thương – xa xoùt!

    Vaø tình yeâu laïi böøng trong maùu huyeát Thánh bắt hồn người con gái mình yêu Giấu vào tim, đem về cõi hư vô

    Tình yêu vốn không biết chờ, biết đợi!

    Khi cõi thế đám tang buồn dịu vợi Thì cõi trên – có hai kẻ yêu nhau

    Tay trong tay ngồi ngắm mãi trăng sao

    Oâi hạnh phúc, ngọt ngào như hương mật!!!


    Tháng 7/1990

    ĐỢI CHỜ

    Con đường hạnh phúc dài thăm thẳm Kẻ kéo người co – hạnh phúc nào?

    Tung hứng vui lòng nhau thoáng chốc Tình yêu đâu vá nỗi lòng đau!


    Anh đợi chờ em biết bao lâu

    Lòng riêng trăn trở suốt canh thâu Tình yêu cõi thế sầu dịu vợi

    Thân trải đắng cay bạc mái đầu

    Đêm cứ dài trôi, anh thức đây! Ngày qua anh đếm mãi bao ngày Người yêu gần đó mà xa cách Lạnh lòng, không ấm nổi vòng tay!

    Đừng khóc nghe em, giọt lệ sầu Anh lau – em có biết gì đâu Hồn quen, xác lạ, sầu vời vợi

    Ngăn cách muôn trùng đau lòng nhau!

    Hãy đến cùng anh – ơi người yêu! Chờ nhau, xin chớ trách đêm sầu Ngày vui, cuộc thế còn trơ đó

    Hẹn nhé, người yêu! Đời muôn sau!!!

    15/9/1990

    ...Tình cao, núi cao, cồn cao!... Cờ lau còn mất – ai chờ, ai đi Đêm đêm bút chép chuyện đời

    Ngàn sau còn để một lời thệ minh...

    ...Tình gọi ngàn xưa về bắt mộng Hững hờ dâu bể, mặc ngàn sau Người vẫn chờ nhau từ muôn kiếp Duyên đó, tình đây – chớ để sầu!...

    Tháng 11/1990

    HOÀI NIỆM MỘT MÙA TRĂNG

    Trời mưa ướt áo chị Hằng

    Gương nga để lạnh hương nguyền lẻ đôi Ai hiu quạnh một góc trời

    Nhớ người trong mộng hát lời tương tư Lam Sơn núi phủ mây mờ

    Đình xưa hoang phế, ai chờ riêng ai? Quạnh hiu một góc trời Tây

    Người ơi bóng ngã không đầy tâm hao Ai duyên, ai nợ, ai sầu

    Ai ngồi đợi mãi bên cầu oan tương Lời ca ngày cũ còn vương

    Bóng người năm cũ chừ phương trời nào? Duyên tơ tóc mãi nghìn sau

    Phút giây ngắn ngủi để sầu muôn thu...

    22/9/1991

    ẢO ẢNH 3

    Anh nói rằng anh đã lỡ yêu

    Làm sao em hỡi – nhớ thương nhiều Lam Sơn trời cũ buồn hiu hắt

    Núi nhớ, rừng thương – suối gục đầu!

    Dù chỉ một ngày vắng bóng nhau Anh buồn như cả thế gian sầu Chao ơi là nhớ ai người biết Tình ấy làm tim xót đến bao!

    Trầm mặc núi cao đứng gục đầu Mây buồn giăng mắc đỉnh tương tư Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Lạnh lắm em ơi – mùa đông sầu!

    Biết đến bao giờ – em dấu yêu Nói đi cho ấm chút lòng nhau Hứa đi, mai nhé, chờ kiếp khác

    Trời hỡi – duyên này ta mất nhau!!..

    22/4/1992

    PHIÊN KHÚC XANH

    Tình yêu tỏa hương đưa em vào giấc ngủ Hoa Ngọc Trâm ấp ủ giấc mơ dài

    Anh ước làm trâm ngọc tóc em cài

    Từng cánh nhỏ trắng một màu trinh bạch!

    Tình yêu tỏa hương đưa em vào giấc ngủ Hoa xu xi từng chùm nhỏ nồng hương Em xòe tay xin, anh tặng một nụ hôn Còn hoa ấy anh cài lên mái tóc!

    Tình yêu tỏa hương đưa em vào giấc ngủ Hoa ngọc lan trắng muốt ủ hương thầm Em mãi đợi chờ – như tình ấy ngàn năm Hoa vào mộng, sắc hương cùng nỗi nhớ!

    Tình là hoa và em là mật ngọt

    Nụ hoa xinh, nhụy thắm ngẩn ngơ lòng Để anh còn say mãi đến ngàn năm Cho đẹp giấc mơ êm – tình yêu ạ!

    17/7/1992

    SỰ XUẤT HIỆN CỦA PHẦN LINH CĂN THỨ HAI

    Một thời gian sau, T.Minh đột ngột biến mất, thay vào đó là thần Lam Sơn (Ông xưng là thần núi Lam – Thanh Hóa). Thần LS da trắng nhờn nhợt, tướng thư sinh bạch diện, mắt to và có khoen, mũi to, môi đỏ như con gái...

    Thần kể rằng trên núi Lam có ngôi đền cổ bỏ hoang từ rất lâu, đền Thần của ông ở đó! Ông xưng mình cũng là một trong những kiếp chồng vợ với phần linh căn Diệu Thiện. Thần LS tâm sự với tôi: Núi Lam có những khi mưa dầm dề ngày này sang ngày khác, khí núi bốc lên mù mịt như khói và lạnh thấu xương. Buồn thực là buồn! Vì vậy Thần hay bỏ đền điện đi chu du khắp nơi - Bây giờ Linh căn về xác Thần xin phép về cùng trong một thời gian rồi đi…

    Thần giải thích: Hai linh căn Nam và Nữ đã trải qua rất nhiều tiền kiếp cho đến nay và luôn chuyển kiếp cùng nhau để tu tập hoặc hành Đạo, độ đời! Từ ngàn xưa, chỉ có người Nam tình nguyện xuống thế, người Nữ chỉ đi theo phò trì. Kiếp này là kiếp đầu tiên người Nữ tình nguyện Độ Đời – xác ông thương vợ đi theo trợ cứu!

    Thần nói: “Rồi em coi, lần lượt sẽ có những phần khác từ Linh căn của người chồng về với em để cho em biết mặt!”

    Thần an ủi tôi: “Em bị đau đớn hành xác nhiều bởi vì anh làm sai luật. Nếu không có anh thì em không chịu nặng nề đến vậy! Nhưng tự bao nhiêu đời kiếp rồi vợ chồng mình luôn có nhau, anh bỏ em sao đành!”

    Hai bài thơ in ở trang trước là của Thần Lam Sơn làm!

    Thần Lam Sơn phép cao hơn Thánh Minh. T.Mngười nhu nhược, rụt rè, ít nói; Thần LS thì ăn to nói lớn, tính khí bướng bỉnh lì lợm. Lúc thì ngọt ngào, vui vẻ, hóm hỉnh. Khi lại buồn giận hỏi mãi không chịu trả lời. Người luôn mặc một áo sơ mi trắng cụt tay, quần tây màu xanh dương đậm.

    Có lần tôi đang ngồi xem ti vi, thấy Thần mặc đồ võ tướng giáp trụ bằng vàng đẹp lộng lẫy. Tôi hỏi Thần đi đâu về. Người nói: “Anh đi làm lễ duyệt binh!”

    Thần LS giỏi phép lắm! Tôi đang ngồi, Thần chỉ đẩy một cái là tôi ngã lăn quay, không tài nào gượng dậy được. Cho đến khi thần kéo đứng dậy, cả hai cùng cười… Có khi cả nhà đang quây quần xem ti vi, Thần đẩy tôi ngã, tôi phải vờ như cố tình nằm xuống để mọi người không để ý!

    Đời sống của tôi lạ hơn mọi người, chính vì thế hay bị em út cho là “lửng tửng”. Trong lúc đang làm việc gì đó hay nói chuyện với mọi người, Điển Ông lại xen vào nói một câu khác – tôi nghe và bật cười, với mọi người thì đó là một nụ cười vô căn cớ! Hoặc ai đó hỏi 2,3 lần cùng một câu hỏi, tôi đang bận nghe ông nói gì đó trong tai nên không trả lời được bèn hỏi lại. Con tôi hay nói: “Mẹ hỏi câu đó 3 lần rồi” hoặc Má tôi cheùp mieäng: “Con naøy khuøng maát roài”

    Khi buồn, tôi nằm lên giường để tờ giấy lên mũi, bảo: “Thở cho tờ giấy tung lên coi anh” Tôi nín hơi, nín thở – tự nhiên tờ giấy nẩy lên từng hồi theo hơi thở (đương nhiên không phải là hơi thở của tôi). Hoặc: “Anh thở trên chóp mũi cho em nghe coi”. Rõ ràng có ai đó thở hơi ra bên trên mũi, mùi hơi thở thơm và nhồn nhột y hệt như hơi thở của một người bình thường!

    Có khi tôi thức giấc nữa đêm, nghe trên ngực trái của mình ngay chỗ trái tim, có một trái tim khác đang đập, nhịp chậm hơn xen kẻ vào nhịp đập của trái tim tôi. Hễ đưa bàn tay đè lên ngực thì hết, buông ra lại đập tiếp! Ông cười bảo: “Trái tim anh đập đó nghe không”…

    SỰ XUẤT HIỆN CỦA LINH CĂN THỨ BA

    Đến rằm tháng 10/1991, trưa ấy tôi cúng hoa trái vừa xong đang còn đứng chắp tay xá Bàn thờ Phật, bỗng nhiên nghe có l luồng kình lực đè nghiến trên đầu tôi nặng như phiến đá đè, sau đó luồng ấy đi dần xuống, chuyển đến đâu cả người rần rần đến đấy!

    Lại nghe tiếng vang trong đầu “Ta-Phật tổ Như Lai đây! Ta về kiểm tra Linh thể!”

    Thế là từ đó phần Linh căn thứ ba xuất hiện: Lệnh chủ Huệ Nghiêm, Chủ nhân của “Huyền Môn Lược Ký”!

    Người giải thích với tôi: Phần trần kiếp cuối cùng của linh căn 2 người là Tất Đạt Đa Hoàng tử và Công Chúa Da Du Đà La. Hoàn thành sứ mệnh trở về Trên từ ấy đến nay không còn tái kiếp nữa. Nay vì đời mạt Pháp thế sự nhiễu nhương, các thế lực tà rất mạnh – trấn áp và khuấy nhiễu chúng sinh, khổ nạn quá nhiều nên phần linh căn người Nữ tình nguyện xuống thế độ trần...

    Đây là việc chưa từng làm, vì kinh nghiệm còn ít nên “Điển Ông” về trợ!

    Ông cũng nhắc cho tôi biết: phải biết cư xử cho rạch ròi và cẩn trọng, chớ có “đánh đồng” phần xác với linh căn! Xác trần ông về bên tôi là Tất Đạt Đa, còn Thích Ca Mâu Ni là Linh Căn – và Linh căn không ở bên tôi.

    Quả thật, từ ấy đến nay khi có lễ cúng gì, vui miệng chúng tôi mời Ông cũng ra mặt, nhưng luôn mặc một chiếc áo chùng dài tới gót màu khói nhang! Ngài Thích Ca hãn hữu lắm mới về, cạo đầu đắp y vàng – không bước chân vào cửa nhà tôi hoặc có chăng ngồi trên ghế sát cửa chính, không đi lại và gọi tôi là “Cô Lan”, xưng “Ta”!

    Tôi hỏi ông: “Linh căn người nữ tính danh là gì?” Ông lại cười, bảo: “Chờ đi, rồi sẽ biết”! Tôi không tin vào lời giải thích của ông. Một xác trần vô danh như tôi, khờ khạo, nghèo nàn và thiếu thốn, bệnh tật như thế này mà là Công Chúa sao?

    Người lại nói: “Hai chúng ta là vợ chồng vĩnh kiếp – đã trải qua 91 kiếp rồi, đây là kiếp thứ 92”. Tôi hỏi: “Lấy gì chứng minh điều đó?” Người bảo: “Chờ đi”…

    Ba ngày sau, bà Ba Củi (người thầu gỗ vụn ở công ty gỗ SaTiMex) cho tôi mượn 1 băng giảng Đạo có tên “Đạo nghĩa vợ chồng”. Trong đó có đoạn Sư giảng về sự thủy chung đời đời kiếp kiếp của 2 vợ chồng Tất Đạt Đa và Công Chúa Da Du đã trải qua 91 kiếp!

    Tôi mở ngoặc ở đây để thưa với các bạn thêm rằng: “Bất cứ điều gì “Điển trên” nói với tôi, chỉ trong ít ngày là số mệnh xoay chuyển để đưa đến cho tôi tài liệu xác nhận sự thật đúng như vậy!

    Vào năm sau, tôi nhớ là gần ngày rằm tháng 7/1992. Tôi vui miệng có hỏi ông: “Thế trong đời khi đã thành Phật rồi, ông có làm điều gì sai luật không?” “Có, anh đưa mẹ là Hoàng hậu Maza về cung trời Đạo Lợi. Ba tháng mùa Kiết Hạ anh về đó giảng Đạo cho mẹ nghe để mẹ đắc Quả vị Phật”

    Hai hôm sau, mẹ tôi đi chùa về cho tôi một tờ bướm có kể lại chuyện này y như lời ông nói! Để giữ lời thề ở đầu Bộ sách “Huyền Môn lược ký” rằng chỉ nói đúng sự thật mà mình đã trải qua - Tôi buộc lòng kể lại nguyên văn những lời Điển Ông nói. Trước tiên phải chân thành xin lỗi các tín đồ Phật Giáo về sự “mạo phạm” ngôn từ! Thứ nhất vì tôi không đủ tư cách để thẩm tra thực hư; thứ hai vì tôn trọng những phần Linh Điển.

    Thôi thì xin độc giả “thể chấp”, hãy để cho tôi được kể lại nguyên vẹn mọi việc không sửa chữa. Nếu không, e “Huyền Môn lược ký” trở thành “tiểu thuyết khoa học huyền bí viễn tưởng” mất!

    Từ ngày đầu tiên về với tôi đến nay, Điển Ông và tôi vẫn xưng hô “anh em” như hai vợ chồng thực thụ…

    THỰC HÀNH CỤ THỂ (2)

    Bây giờ tôi lại kể tiếp vài trường hợp thực hành cụ thể để thay đổi không khí cho bạn đọc đỡ nhàm chán, vậy nhé!

    Mẹ của chị Hương (bán gạo Hợp tác xã Tân Thới Hiệp) bị tăng huyết áp, trụy tim rơi vào hôn mê hơn nửa giờ đồng hồ. Tôi đến cấp cứu cho bà, bà hồi tỉnh sau hơn nửa giờ nữa và ngồi dậy được bình thường!

    Lúc đó 2 quạt máy để 2 bên góc phòng quay ào ào, tôi đặt 2 tay lên người bà cụ, mồ hôi chảy ra dầm dề như đang tắm, và nước thì uống vào liên tục. Thực ra, tôi cũng không hiểu do cơ chế nào mà mỗi khi Điển về nhập và tôi, nhất là khi trụ thần để chữa bệnh thì mồ hôi tuôn ra liên tục như mưa vậy! Có điều tôi rất khổ về việc này, vì mỗi ngày tôi phải thay 3, 4 bộ đồ - mùa hạ phải tắm 6 lần, mùa đông lạnh cắt da chí ít cũng tắm 3 lần 1 ngày…

    Cậu C. 22 tuổi là quản đốc XN Cưa thuộc công ty Cơ khí (hiện nay thuộc khu vực ngã tư chợ Hiệp Thành)

    Đêm C thường xuyên mơ thấy 1 cô gái tóc dài mặc đồ bà ba trắng, người có tật 1 chân. Cô gái dẫn C đi chơi. Một người bạn khuyên: “Vậy là phần âm đó thích mày. Mày lập bàn thờ cô ấy để cô phù hộ cho”

    Từ lúc có bàn thờ, đêm nào hồn cô gái cũng dẫn C đi chơi sáng đêm. Hơn 1 tháng sau người gầy rạc hẳn đi, da xanh mét. Đến mua báo tôi thấy C đi lảo đảo, nhìn mặt tôi sanh nghi! Nghe C kể chuyện, tôi xin Điển P.B về cứu, Người bảo: “Đó là vong con quỷ một giò” Rồi P.B

    chỉ: Chờ tối 9 đến 11 giờ đêm, đem 1 đĩa bánh trái và lư hương, bình bông ra ngã 3, ngã tư đường cúng kiếu, bỏ lại tất cả rồi ra về. Xong thượng hình PB lên thờ (vì C muốn xin thờ PB)…

    Tôi tặng 1 tấm gỗ đen khắc hình PB, bảo C để dựng lên đầu giường ngủ. Một tuần sau, C ra tôi kể lại: “Từ ngày thờ PB đêm nào cô ấy cũng về đứng ngoài cửa nhìn ra dáng oán trách lắm! Kế bên có 1 ông mặc quần đỏ cầm roi cứ chực xô vào đánh” - Đến nửa đêm thứ bảy, C ngủ quên quơ tay đụng tấm ảnh PB rơi úp mặt xuống đất. Người mặc quần đỏ xô vào đánh C rất dữ. Cậu C la đến nỗi cả xí nghiệp phải phá cửa vào mới cứu được.

    Tôi hỏi lại thì ra C tiếc bình hoa và lư hương đẹp nên không đem bỏ, chỉ để hình PB lên thờ thôi! Phần vong của họ ở trong lư, giờ án Điển PB vào họ sợ, họ quậy là phải - tôi chỉ C về cúng kiếu một lần nữa, từ đó về sau không thấy cô gái trở lại.

    Thế mà sau 15 năm, tôi vẫn còn nghe có người nhắc đến con quỷ 1 giò ấy!

    Cách đây 5 năm, cậu em của tôi ngủ ngoài tiệm chụp hình, nửa đêm thấy phần âm nhân dạng y hệt như vậy: tóc dài kẹp, áo bà ba trắng dài tay, dài áo, tướng xinh xắn, thanh mảnh, và đặc biệt là có cái chân bên trái bị thọt!

    Cách 2 năm trở lại đây, một cô học trò của tôi (học và làm thầy chữa bệnh bằng nhân điện) lại tả là gặp một người y như vậy đi lảng vảng trước nhà. Lúc đó chó trong xóm sủa, tru lên kinh khủng mà cô ấy vẫn đi bình tĩnh như không, cái chân thọt kéo lê trên đường trông thật thương tâm!

    Mười lăm năm, và không biết còn bao nhiêu năm nữa ở trước mặt, rồi trước 15 năm ấy là bao nhiêu năm, kể từ ngày lìa bỏ cõi thế ra đi, hồn lạc phách xiêu phưởng phất nơi đầu cây ngọn cỏ, lang thang giữa cuộc trần, lẩn lút đi về như khói, như sương...

    Thương cho 1 số phận, tiếc cho một linh hồn - khi còn mang hình hài nhân thế, chẳng biết đường tu, chẳng lo gieo trồng quả thiện. Nay mất thân người, hận kiếp nào nguôi?!

    * Phần cậu C, do chuyện trên nhận tôi làm chị kết nghĩa, mỗi đêm tụng kinh niệm Phật siêng năng lắm!

    Có lần C bị đau mắt đỏ, cả 2 mắt sưng húp và đầy nhữ - tôi xin PB về chữa. Đêm đó C mơ thấy PB Quán Aâm về mặc áo lụa trắng rất đẹp. PB nói: “Để ta chữa cho con hết đau mắt nghen!” nói rồi cầm 1 lọ con, trong đó có thứ nước thuốc màu trắng như sữa, đem trút xuống đất. Đỉa ở đâu bò đến rất nhiều len vào hút nước ấy rồi bò lên mặt hút máu trong hai con mắt…

    C sợ đến chết khiếp, tỉnh dậy 2 mắt hết đau hẳn và không còn chút di chứng gì!

    Cho đến 1 ngày C bảo tôi: “Em muốn cưới vợ, chị xin Mẹ về hỏi giúp em về cô ấy xem sao!”

    Mẹ về, cầm tấm ảnh lên ngắm 1 hồi rồi nói: “Gia đình đó không ra gì: Cha 2, 3 đời vợ, Mẹ 2, 3 đời chồng. Cô gái đó không còn trong trắng nữa, mở miệng ra thì chửi thề, nói tục. Con lấy nó là chôn vùi đạo hạnh xuống

    chốn bùn nhơ!”

    C bán tín bán nghi vẫn tiến hành đám hỏi, sau đó mấy hôm thì bị trúng gió, tay chân co cứng, tim ngừng đập, sùi bọt mép, xem như là đã chết hẳn rồi. Tôi cấp cứu 15 phút sau thì C sống lại, cả xí nghiệp cưa đều chứng kiến chuyện ấy!

    Ngày C đám cưới, tôi được mời đại diện họ nhà trai. Cha vợ của C gọi tôi lại giới thiệu: “Đây là con lớn của đời vợ trước của bác. Đây là con lớn của đời chồng trước của bả đó” C đứng chết trân, mặt tái mét như sắp xỉu!...

    Một tuần sau C ra sạp báo ngồi ôm mặt khóc: “Em cãi lời Mẹ, giờ ân hận cũng muộn rồi! Đêm tân hôn cô ấy không còn trong trắng, em hỏi thì cô ấy chửi thề một tiếng rồi nói: “Tao vậy đó, mày chịu không chịu thì thôi”...

    Bẳng đi gần 1 năm, tôi gặp 2 vợ chồng C đi xích lô đạp ngang sạp báo. Tôi gọi lại, lúc đó C bị bệnh sốt vàng da, người chỉ còn bộ xương, bệnh viện không chữa được trả về chờ chết! Tôi xin PB về cứu, Người bảo: “Không nghe lời ta thì chết cũng đừng cầu ta cứu” - Tôi năn nỉ hồi lâu, PB nguôi giận nói: “Giờ Ngọ trưa nay con lên nhà nó, chữa 1 lần hết hẳn không còn triệu chứng!”

    Sự thực đúng như vậy. Mãi đến hôm nay C vẫn còn sống và khỏe mạnh bình thường, ở gần nhà tôi...

    Bà Bảy Miết (ở đầu đường vô nhà tôi) đang đi ngã xuống đất xỉu cứng người. Tôi chạy ra cấp cứu, chỉ 2 phút sau bà tỉnh dậy.

    Kế bên sạp báo của tôi có 2 vợ chồng ông H làm nghề sửa xe, vợ mua bán gà vịt ở chợ! Cứ 3 giờ sáng là trở dậy cắt cổ gà, tiếng gà vịt kêu la thảm thiết...

    Tôi khuyên mãi bà H không nghe, bởi mê tiền lời lãi nhiều từ mua bán gà vịt - Can hoài không được, tôi thắp hương xin Mẹ về chuyển hóa! Một buổi sáng nọ, bà H sang kể với tôi: “Đêm hôm mơ giấc chiêm bao sợ quá: Đang ngủ chợt nghe 1 luồng gió mạnh cuốn đi. Bay bên trên tôi là một người đàn bà, tôi mừng quá tưởng được đưa về cõi Trên, ai ngờ người ấy đem dúi đầu tôi xuống 1 mảnh ruộng bùn. Còn nói “Mi chừa chưa, chừa tội sát sanh hay chưa?” tôi ngộp thở sặc sụa - Bà ấy kéo tôi lên cho thở vài hơi rồi lại nắm tóc, dúi đầu xuống. Tôi cầu xin mãi bà mới buông tha”…

    Ấy thế mà bà H vẫn chưa chịu bỏ nghề, bà nói như để ngã giá: “Nếu chị xin Mẹ chuyển cho tôi có nghề làm ăn khác thì tôi không bán gà vịt nữa”. Một thời gian sau, bà H hùn với một người bạn mở tiệm bán cơm, sang bảo tôi xin Mẹ cho ngày khai trương và lễ khấn cúng! Tôi giúp bà trọn vẹn mọi chuyện - Thế là gia đình bà H đem cả đồ nghề sửa xe cùng với bình khí đá, các thứ linh tinh trong tiệm để cả sang trước sạp báo của tôi. Rồi âm thanh tiếng nổ máy xe, khói thụt ống pô mù mịt làm tôi đến chết ngộp...

    Tiệm cơm bà H mới mở ra đã bán rất đắt, buổi trưa xí nghiệp ở gần đó đổ ra ăn cơm đông nghịt. Tôi chịu hết xiết, xin Mẹ về xử chuyện này. Mẹ nói: “Không biết điều thì ta cho dẹp”. Từ đó trở đi tiệm cơm không bán được gì cả, độ 10 ngày sau thì dẹp. Không biết bà có oán Mẹ cho ngày khai trương chỉ bán đắt có 1 tuần hay không nữa...

    * Vốn bà H có đứa con gái lớn học may xa nhà - Một hôm PB về bảo: “Một năm rưỡi nữa bà nuôi đứa con gái lớn chửa hoang trong nhà”. Bà H sợ quá bắt con bỏ học trở về. Thế mà sau đúng 1 năm rưỡi, con bà có thai hoang thực!

    Cô bé ấy sang khóc với tôi, đòi đi phá bỏ! Tôi can ngăn xong rồi đứng ra dàn xếp, mượn quyền lực Bề trên xui bà H cho cưới gả...

    Bà H nghe lời, tổ chức đám cưới! Sang báo với tôi ngày giờ đàng trai sẽ sang rước dâu. Điển trên ứng về bảo: “Sáng ngày hôm đó ông chủ nhà sẽ quậy và đập phá tan hoang đám cưới”. Bà H khóc, năn nỉ xin Mẹ cứu! PB bảo: “Sáng sớm trước 7 giờ dâng 1 bình hoa huệ và ngũ quả lên bàn tròn lớn để ở giữa nhà, khấn xin PB ta về cứu cho”

    Sáng sớm hôm ấy, bà H chạy sang mượn bình hoa huệ tôi vừa mua về, chưa kịp dâng hương đem về cúng lễ Phật.

    Một lúc sau ông H cũng la hét om sòm trong nhà, đập vài cái chén rồi thôi - Aáy thế mà bà H vờ quên luôn bình hoa, 1 tuần sau tôi sang đòi bà đưa trả tôi cái bình không…

    * Một lần nọ Mẹ Q.Aâm lại bảo: “Từ đây đến rằm tháng bảy chồng bà bị người ta đánh lỗ đầu”. Bà H lại năn nỉ xin cứu và hứa ăn chay hết tháng bảy để giải nạn! Đúng chiều 14, ông H đang đứng sửa xe máy thì có 1 đám đông thanh niên say rượu đánh nhau chạy vào nhà -

    Một người chui sau lưng kéo ông H làm bia đỡ đạn, còn 1 người khác thì cầm cây gỗ dầu vuông bổ xuống đầu ông H Đánh trợt bị mọi người tréo tay đưa ra ngoài...

    Xưa nay vẫn thế, lời tiên đoán của Bề trên chính xác lắm. Nhưng nếu chủ nhân van cứu, sự việc vẫn “tuần tự như tiến”, có điều không xảy ra chấn thương gì nặng nề!

    Lại có lần PB bảo: “Cái bình khí đá này sắp nổ và sẽ có thương vong đấy”. Bà H lại xin cứu, sau gần 10 ngày bình khí đá nổ thật! Một buổi trưa chung quanh đang yên ắng bổng nghe 1 tiếng nổ kinh hoàng, lại thêm 1 điều kỳ diệu nữa là không có ai bị tai nạn gì!

    Ông H bị lên cơn suyễn, ba hôm liền tôi đi qua đều thấy ông ngồi thu mình trong 1 góc mùng kín. Tôi hỏi mới biết là ông H bị lên cơn suyễn đã hơn tuần rồi, không ăn uống và cũng chỉ ngồi chịu trận chứ không nằm xuống được. Tôi sang nhà, xin Điển rồi chữa có 1 lần đầu tiên đã thấy ông H ngồi dậy được, ra ngồi uống cà phê nhìn tôi cười chào!

    Giữa tháng 5/1995 tôi đang có thai cháu thứ ba, PB hứa cho tôi nghỉ để dưỡng thai. Lúc đó đột ngột bà H bị đau nhức ngay cổ tay bên phải (bàn tay cầm dao cắt cổ gà). Nhức từ sáng sớm đến lúc nửa đêm, nhức kinh khủng đến nỗi đã chích 3 mũi thuốc giảm đau mà chẳng tác dụng gì!

    Đến hơn 12 giờ khuya nghe bà thét lanh lảnh: “Đem con dao đây, chặt bỏ ngay tức thì, chứ không đau đến chết mất”. Cầm lòng không đậu, tôi trở dậy sang nhà bà H xin PB về cứu! Tôi không dám truyền điện, chỉ cầm lấy bàn tay đau và cầu xin PB về, Người đứng ở cửa buồng nhẩn nha nói: “Ta kể chuyện cổ tích cho bà nghe nhé! Ngày xưa ở bìa rừng nọ có gia đình ông tiều phu rất nghèo, có 3 cô con gái. Ngày nọ 1 vị chúa Quỷ giả dạng đến xin trọ lại một đêm. Sáng hôm sau hắn thuyết phục người cha cho 3 con quỷ trú ngụ trong nhà, đổi lại sẽ ban cho toàn gia giàu có, tiền muôn bạc ức...(tôi phải xin lỗi các bạn, chuyện này kết như thế nào tôi quên mất rồi) chỉ biết rằng PB kể vừa xong, bà H hết đau ngay lập tức!

    Thế nhưng vài năm sau tôi vẫn còn thấy bà H ngồi chợ bán gà vịt. Phải công nhận là lòng tham lợi đáng sợ thật!

    NGHIỆP THẾ TRẢ VAY

    Đã nhiều lần ông Điền (ba Tí Ti) kiếm chuyện gây và cấm không cho tôi chữa bệnh cho mọi người nữa: “Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng! Từ nay tôi cấm cô không được chữa bệnh cho ai nữa. Nếu không đừng trách tôi”. Tôi lại cầu cứu PB, Người bảo: “Để ta trị cho nó biết tay” Một buổi sáng, ông Điền bảo: “Chết rồi em ơi, trĩ nó lòi ra 1 khúc” (vốn ông Đ bị trĩ nội bao nhiêu năm rồi vẫn hay ra máu - Là Đại úy lái xe, nghề tài xế sợ nhất là trĩ ngoại, bệnh này mà ngồi lâu thì đau đớn lắm! Tôi bảo: “Anh phải thề là từ nay không bao giờ cấm tôi chữa bệnh nữa, tôi làm cho nó thụt vô sau 15 phút”. Ông ấy thề, nằm xuống cho tôi bấm huyệt, vừa xong trĩ đã thụt vào như cũ và không bao giờ lòi ra nữa…

    Giữa năm 1991, PB về bảo với tôi: “Một năm rưỡi nữa con ly hôn với chồng và gần như ngay lập tức con lại lấy chồng khác, đó là Định mệnh”. Tôi khóc lóc, cầu xin, PB bảo: “Không được! Nó làm trở ngại công việc của con. Nó là ma quỷ tà mị, con không chung sống lâu với nó được”... Tôi nghe đó rồi lại quên đi! Mãi về sau không chịu nỗi tính càn quấy và trăng hoa của chồng, tôi đưa ra tòa ly hôn…

    Ngày tòa xử là tròn 1 năm ba tháng sau ngày PB về báo! Lúc ấy tôi như kẻ vừa được thoát khỏi địa ngục sau 10 năm giam cầm, sung sướng tưởng chừng như con chim được sổ lồng vậy…

    PB về tôi vừa khóc vừa cười: “Mẹ ơi! Con thoát nghiệp rồi” PB buồn hiu, nói “Con mừng chứ ta không mừng, còn 3 tháng nữa mới mãn số - Ba tháng trả bằng 3 năm nghe con”.

    Ông Điền vì oán hận, truy đuổi và làm nhục tôi mọi lúc mọi nơi. Tôi đành nhắm mắt bước đi bước nữa với người đàn ông vừa mới quen biết qua loa…

    Ngay ngày đầu tiên tôi quyết định, PB nhập vào tôi nói với người chồng mới như sau: “Lan nó còn nhiều bổn phận và trách nhiệm với đời. Nếu hai đứa lấy nhau con phải hứa là không ngăn cản nó, nếu không ta cắt đứt”. Tôi còn nhớ hôm đó PB nói mà bàn tay ra dấu oai phong lẫm liệt: “Trong tay ta Càn Khôn nắm lại, trong tay ta Nhật Nguyệt bừng soi...”

    PB lại nói với ông H như sau: “Phần Linh căn của con là Thần Võ, lại là thần ở vùng núi trọc nên tính khí nóng như lửa. Đêm nay ta sẽ làm tái hiện tiền kiếp của con cho con xem”

    Gần nửa đêm ông H đang nằm trên giường vụt chỉ tay vào vệt sáng màu đỏ từ bóng điện trên bàn thờ PB hắt lên nóc nhà nói: “Em có thấy vệt sáng kia không? Anh thấy nó y như màn hình ti vi đang chiếu nhiều cảnh kỳ lạ quá”. Tôi hỏi và ông H kể: “Có 1 người đàn ông mặc áo bằng da thú, cầm cây lao, đang đánh nhau với 1 nhóm người khác. Rồi người đàn ông đó bị đâm ngay tim ngã xuống, máu ra nhiều lắm. Rồi...nằm im rồi... chết rồi!...”

    Nằm im lìm độ 1, 2 phút ông H lại nói: “Nữa kìa, anh thấy nữa kìa! Bây giờ là 1 cậu trai trẻ mặc sơ mi trắng, quần tây xanh, chắc là sinh viên, đang leo đứng trên 1 sạp bán đồ giữa chợ diễn thuyết. Người ta bu đến nghe đông lắm! Có 1 ông sĩ quan nấp đàng sau 1 người đưa súng lên nhắm bắn - súng nổ, mọi người chạy tán loạn, chàng trai ngã xuống nằm im bất động. Chết rồi, chết rồi...”

    Lúc đó ông H như rơi vào cơn mê thiếp nói lảm nhảm y hệt người lên đồng - Tôi sợ quá ôm gối rúc vào 1 xó tường, không dám lại gần!

    Ông H kể lại cả thảy 5 tiền kiếp của mình, tôi chỉ nhớ được có 3, chuyện cuối cùng như sau: “Có 2 đội binh đánh nhau bằng cung kiếm. Đội nào cũng giáp trụ, mũ miện đàng hoàng! Có một viên Tướng trẻ mặc giáp trụ màu vàng, cỡi con ngựa trắng rất đẹp, đôi giày cũng mạ vàng nữa. Viên Tướng trẻ rất dũng mãnh, một mình tả xung hữu đột, rồi lạc qua vùng địch - bị cả đội quân vây đánh, Tướng ấy đánh trả rất dữ! Có 1 tên đâm 1 gươm vào bên hông. Viên Tướng ấy ngã xuống, 1 chân bị vướng lại, con ngựa lồng lên chạy kéo lê vị Tướng dưới chân. Rồi... chết rồi, máu chảy ướt cả áo giáp rồi kìa”…

    Sau lần tái hiện tiền kiếp này, ông H nhắm mắt, rơi vào cơn mê rồi ngủ luôn tới sáng!

    Vốn ông H là người đạo Tin Lành, không cùng nhánh Đạo, thế mà PB chuyển được “thần thức” của ông ấy. Quả thực là huyền nhiệm!

    LIÊU TRAI TÂN THỜI (2)

    Kể từ rằm tháng 10/1991 phần trần xác của Tất Đạt Đa về cùng tôi! Ngay đêm đó tôi mơ thấy 1 giấc mơ lạ: Tôi thấy mình cùng 1 người thanh niên mặc áo sơ mi trắng quần Aâu đen mang giày Tây, áo cài kín cổ và tay - Tất cả bộ lệ trên người đều thẳng thớm, cứng ngắt và nghiêm chỉnh, kiểu ăn mặc cổ kính, thiếu tân kỳ!

    Tôi thấy 2 người cùng đi trên một chiếc xe mui trần, kiểu có lẽ còn cổ xưa hơn quần áo của chàng trai nọ: Tay lái gắn vào 1 cái cần sắt, 2 bàn đạp cũng như peđal xe đạp, chắc là loại xe thời “tiền chế”.

    Đến một nơi như dinh thự sang trọng, có một người phụ nữ đưa ra rất nhiều cô gái đẹp, rõ ràng là để người nam “lựa chọn”. Người đàn bà ấy giới thiệu những cô đẹp và nổi bật nhất! Chàng trai lặng lẽ ngắm xong, mỉm cười chiếu lệ rồi vẫy tay chào, quay ra nắm chặt tay tôi, ý như bảo: “Tôi chọn cô gái này” xong bảo: “Ta đi thôi”. Có thế, tôi giật mình tỉnh dậy!

    Tôi vẫn còn nhớ trong giấc mơ tôi chỉ là 1 cô gái quê mùa, mặc áo bà ba trắng quần đen, tóc thề bỏ xõa! Có lẽ “Điển ông” đang muốn tỏ cho tôi biết rằng tôi được ông ấy chọn, thay vì những cô Tiên ở tận cõi trời kia. Quả là “vinh dự” thay cho kẻ phàm nhân...

    Từ dạo ấy trở đi “Điển ông” thường xuyên đưa linh hồn tôi đi đó đây, điều đặc biệt là đi lúc còn thức, hoàn toàn tỉnh táo và có lý trí, chứ không thụ động như trong giấc mơ!



    Tôi kể lại các đợt xuất hồn của tôi cho các bạn nghe. Đang mơ chuẩn bị ngủ, tôi chợt nghe thấy


    cả người mình bốc bay lên! Ông bay trước kéo tôi theo sau lưng (chỉ đứng mà lướt gió, chứ không bay như cánh chim). Gió lạnh rít lên bên tai, tôi sợ quá bật lên tiếng la, ông bảo: “Đừng sợ, có anh đây, anh đưa em đi chơi!”. Độ chừng 5 phút, ông dẫn tôi hạ xuống, tôi thấy mình đang đứng giữa một khu rừng già. Aùnh trăng chiếu lấp lánh trên những tàn cây cao… Dưới chân tôi, thật nhiều lá rơi, đi lún cả bàn chân, tôi lại thấy trên những phiến đá rải rác dưới các gốc cây có vài người ngồi xếp bằng im lặng, cả người như chỉ còn bộ xương khô! Tôi thốt lên: “Ma kìa!”. “Không phải đâu, các vị Thiền sư tu theo phái ép xác đó, đừng làm phiền họ”. Rồi ông bảo: “Đây là rừng Tây Tạng, đi lại đằng kia xem”. Tới một chỗ, tôi thấy có mấy chiếc quan tài để trên mặt đất, có 1 đoàn binh lính Triều đình và 1 vị đội vương miện trên đầu. Vị ấy bước tới chỉ cây phương trượng đang cầm trên tay vào từng chiếc quan tài một! Bỗng nhiên, nắp hòm bật lên, xác người đứng dậy bước ra, đôi mắt đứng tròng, tay chân bước đi hệt như tượng gỗ - Những người lính bước tới khiêng từng súc cây rừng để trên vai, hai người một cây và họ bước đi từng đôi một, không hề lên tiếng nói, chỉ có tiếng bước chân lạo xạo dẫm lên lá rừng...

    Tôi sợ đến muốn chết ngất. Oâng siết tay tôi và nói: “Anh cho em thấy cảnh các vị Pha-ra-ông ngày xưa và tục ướp xác để phục vụ cho họ như vậy đó”.

    Có điều kỳ lạ là những người ấy chừng như không hề nhìn thấy chúng tôi, y như chúng tôi là “kẻ tàng hình” vậy!

    Rồi ông dẫn tôi đi tiếp, đến 1 quãng trống đất sạch trơn, không có 1 chiếc lá rơi, y như có ai đó vừa quét dọn vậy.

    Ông đứng ra ngay giữa trảng trống, tôi đứng kế bên. Chợt nghe trên đầu mình đâu đó giữa từng không vang lên tiếng một dàn đồng ca, tiếng thánh thót nghe rất hay. Tôi cố lắng nghe, nhưng ngữ âm hoàn toàn xa lạ, tôi chẳng hiểu được gì!

    Có một đoàn các vị Thiền sư phương phi đạo cốt, đầu cạo trọc vai đắp y vàng chắp tay, lặng lẽ đi tới, dạo một vòng quanh chúng tôi - rồi một vị lớn tuổi nhất đi tới trước mặt Ông quỳ gối xuống 1 chân cung kính nâng lên ngang đầu một cây phương trượng bằng vàng, giống như đã thấy trong tay “Trần Huyền Trang” (phim “Tây Du Ký”)

    Ông cầm lấy, chống xuống đất một cái! Vị lão sư đứng lên cung kính chắp tay xá xong đi giật lùi trở ra nhập vào hàng diễu hành thêm 1 vòng nữa rồi rẽ vào rừng sâu đi mất. Ông đưa tôi về nhà...

    Tất cả những việc này tôi thấy trong trạng thái hoàn toàn tỉnh thức và đương nhiên bằng con mắt của tâm linh!

    * Có lần tôi đang ngủ ngon, chợt nghe có 1 luồng gió mạnh cuốn bay đi, hất tôi xuống đất ở đâu đó! Khi té đau lồm cồm ngồi dậy là lúc tôi giật mình tỉnh giấc, và tôi lại tiếp tục cuộc du lịch kỳ thú trong mơ, cuộc du lịch bằng tâm thức…

    Tôi ngồi dậy, phủi cát dính trên mặt mũi, áo quần, có 1 vị sư nữ từ đâu hiện ra bước tới hỏi tôi: “Thí chủ đã tới đây rồi. Đây là cõi Trên. Thí chủ muốn ở lại đây bao lâu - Nói mau!”. Tôi lắp bắp: “15 phút”. Xong sực nghĩ: 15 phút thì ít quá, lại nói: “30 phút, 30 phút” - “Người được chuẩn y, đứng lên đi”!

    Vị sư nữ ấy dẫn tôi đi qua 1 cây cầu nho nhỏ, màu trắng y hệt như làm bằng bông gòn hay bông tuyết vậy. Tôi sợ chẳng hoàn hồn, bước đi cứ bập bềnh như người say... Qua khỏi cầu tôi thấy trước mặt là một khu rừng chắn lối - chợt lại thấy từ đâu xuất hiện những ông lão râu dài tới gối, cả người chỉ bé độ chừng cao hơn đầu gối ta 1 chút! Họ cầm rìu, ra bộ như chặt cây, thế là cây rừng ngã dài xuống xếp thành đường đi dưới chân tôi...

    Đi một đoạn, tôi lại thấy mình đang men theo 1 bờ suối trong vắt, nước chảy róc rách dưới ánh trăng nghe rất êm tai - Tôi nhìn thấy chung quanh mình toàn là hoa tím, vàng, xanh, đỏ nở ra từ những cây cỏ dại bên đường, bé xíu xiu và nhiều như trải thảm, tiếng chim hót trên tầng cao đâu đó, âm điệu nghe thật du dương!

    Rồi tôi thấy một cánh cổng màu nâu xỉn tựa như màu rỉ sét. Tôi nghĩ trong đầu: “Cõi Trên gì mà cửa bằng sắt rỉ thế này” Ni sư bật cười, như nghe thấy lời tôi, Người nói: “Mã não đấy, mã não xám”, tôi sờ vào đúng là bằng đá, mát lạnh!

    Bước qua cửa, tôi thấy một căn phòng rộng mênh mông trần thật cao với những cây cột to bằng 1 vòng ôm toàn bằng đá cẩm thạch.

    Chính giữa phòng có 1 chiếc ghế nạm rồng phụng rất đẹp. Ni cô sờ tay vào những hoa văn, chỉ tôi: “Đây là Hồng ngọc, Lam ngọc, Bạch ngọc...” Toàn bộ căn phòng chìm trong bóng tối, chiếc ghế phát ra thứ ánh sáng chập chờn kỳ ảo, nửa hư nửa thực của những vàng, ngọc nạm trên mình...Tôi thấy có 1 bóng đen đi lướt qua trước mặt, ngồi vào ghế, rồi nói: “Phật Bà Quán Aâm đây. Con niệm Quán Aâm xin hiển hiện cho con thấy mặt đi”. Tôi niệm xong, thấy từ trên cao có nhiều tia sáng nhoáng nhoàng bổ xuống ghế ngồi thoáng chốc rồi tan biến. Niệm 3 lần như thế vẫn không thấy được gì! PB nói: “Con chưa có huệ nhãn, thôi để lúc khác vậy”.

    Đột nhiên trước mặt tôi, từ xa trôi tới, trụ lại một giây trước mặt rồi biến mất, cả thảy 4 lần, 4 khuôn mặt Quỷ ác nhe nanh, le lưỡi dọa nạt tay cầm giáo mác trông rất khủng khiếp! Tôi bịt hai tai lại thét lên, những hình ảnh ấy vẫn “tuần tự như tiến”, giống như một lập trình đã có sẵn vậy…

    PB nói: “Con có biết ai đó không? Tứ Đại Thiên Vương hầu bốn bên Phật Tổ đó” - Tôi vốn lì lợm, bướng bỉnh lắm, vội hỏi: “Tứ Đại Thiên Vương mà là 4 con quỷ sao? Họ để làm gì vậy, PB?”. Người trả lời: “Họ là những vị quan hành xử, mỗi vị môït phương. Con tưởng nhà Phật chỉ có cứu độ thôi sao - Nhà Phật cũng y như một vương triều, có ban ân phúc và có cả trừng phạt nữa”.

    Rồi PB dẫn tôi ra phòng sau, tôi thấy sát vách là một phản gỗ màu đen bóng loáng, trên đó có 1 cái gối cũng bằng gỗ y như vậy! PB nói: “Ngài Thích Ca ngự tọa ở nơi này”... tôi ngạc nhiên: “Nằm trên gối bằng gỗ như vầy sao?” PB chỉ ừ một tiếng, không nói gì nữa!

    Tấm phản thấp chỉ cách mặt đất chừng 2 tấc, ngang độ 1 thước, dài chừng 2 thước. Trông bé xíu, lọt thỏm giữa căn phòng rộng.

    PB lại bảo: “Về thôi con, mất ngủ hết đêm rồi đó” Thoắt cái, lại thấy tôi nằm trên giường như cũ...

    Sáng hôm sau, tôi kể cho cậu Công nghe (người tôi đã nhắc đến vào đoạn trước). Công bảo tôi đóng cửa sạp báo nghỉ bán, dẫn tôi xuống chùa Vĩnh Nghiêm, nơi có tượng Thần Hộ Pháp!

    Công không nói gì, đưa tôi lên lầu 1 đi bằng cửa sau, vào Chánh Điện dâng hương xong tôi sung sướng trầm trồ ngắm mãi những tượng Phật rất đẹp ở đây. Công đưa tôi đi vòng ra phía trước, vừa nhìn thấy 2 bên chính diện là tượng 2 vị thần hộ pháp thật cao to, tôi đã sợ đến khuỵu chân không đi được nữa, tôi la lên: “Đúng rồi, đúng 2 ông đó rồi C ơi”. Tôi gần như xỉu đi, C phải dìu tôi chạy nhanh, xuống tới dưới đất còn chưa kịp hoàn hồn!

    Tôi phải xấu hổ mà nhận rằng: mặc dù gốc nhà đạo Phật, tôi vẫn không biết gì về các sự tích hoặc Kinh sách nói về Phật Đạo. Và cũng xin mở ngoặc ra đây để giải thích với bạn đọc rằng: thời gian đầu tiên “Điển trên” ngự về với tôi (Tính ra gần 15 năm) Huệ nhãn chưa phát, con mắt tâm linh của tôi cũng chỉ thấy những gì Điển đưa tới cho thấy! Vì vậy ngay cả quang cảnh “cõi trên” tôi cũng chỉ được nhìn thấy hạn hẹp vài cảnh, chứ không nhận biết được toàn bộ chung quanh.

    Có lần nửa đêm giật mình thức dậy, tôi lơ mơ thấy như mình đang đi trên một mặt sàn bằng tre nứa gập ghênh và bồng bềnh rất lạ! Oâng dẫn tôi đi về phía trước, chạm tay vào 1 lan can bằng gỗ. Lúc đó ánh trăng chiếu thấp thoáng cho tôi thấy 1 căn nhà sàn, nói đúng hơn là 1 khoảng sân rộng de ra nằm trên mặt nước một dòng sông đang chảy! Dòng nước đang độ sung mãn tràn trề cuồn cuộn chảy qua, trên đầu tôi có 1 tán cây Bồ Đề rất to, những chùm rễ lớn buông từ trên cao xuống đong đưa như những con rắn đang múa. Aùnh trăng chảy qua từng kẻ lá lao xao, chiếu thành những vệt sáng lấp loáng trên mặt nước như đang nhảy múa, vươn dài ra rồi thu ngắn lại, chập chờn...

    Ánh trăng như dát bạc trên ngọn sóng vỗ vào chân cột nhà sàn, chạm vào rồi tóe ra như muôn ngàn vì sao nước lung linh...

    Nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy, tưởng chừng trong thoáng chốc có thể giật tung, cuốn trôi cả mặt sàn cùng những gì trên đó, tôi sợ hoa cả mắt, la lên: “Đưa em đi khỏi đây mau, em sợ lắm”. Ông lại dìu tôi bay lên, thoáng chốc đã thấy mình trở về nằm trên giường như cũ...


    RỬA XÁC (2)

    Giai đoạn này là lúc tôi bị hành căn khủng khiếp nhất (dài gần trọn 20 năm). Phải nói là tôi không hề muốn nhìn lại bao giờ! Nhưng vì tôn trọng sự thực, tôi xin phép chỉ kể lướt qua... Nếu không có 2 năm trở lại đây được giảm về mọi mặt: cả về thể xác lẫn tinh thần cũng như hoàn cảnh sống thì có lẽ chẳng bao giờ tôi có can đảm nhìn lại đời mình - Cơn ác mộng 20 năm rồi sẽ chìm vào quên lãng. Giống như hạt bụi kia rơi xuống tự thiên hà, cọ xát cùng cát bụi đường trần ố lem, trộn lẫn hay dúi dụi vào 1 góc kẹt nào đó giữa cuộc đời, chẳng còn lại lấy một âm vang...

    Gần 50 năm, hơn nửa kiếp sống con người chỉ còn lại ánh chiều vàng qua song cửa, nhìn lại đời mình tôi chẳng biết nên cười hay khóc! Nước mắt khô mất rồi qua bao hố thẳm nhân gian - Vẫn còn cháy đâu đây ngọn lửa Huyền Môn lặng lẽ soi tận cùng những nỗi đau thương và niềm bất hạnh. Còn nguyên bàn tay cứu sinh vô hình mà Đại Hùng Đại Lực, Đại Từ Bi! Và vẫn còn nguyên một tôi làm chứng cho 2 sức mạnh: Sức mạnh của sự cứu rỗi và sức mạnh của sự tàn phá chẳng nương tay!

    Tôi hay bị nhức đầu, nhức như có ai đó cầm cây kìm to kẹp vào hai bên thái dương. Đến ngày thứ ba thì hai mắt đổ hung quang, nhìn một thành hai! Không uống thuốc còn đỡ, càng uống càng nhức muốn chết được, chừng 10 ngày thì dịu lần, đến nửa tháng thì hết hẳn.

    Tôi từng bị viêm khớp bàn chân trái trong 2 năm rưỡi: lúc thì đau lặng lẽ, lúc lại sưng to và nhức đến nỗi chỉ muốn chặt bỏ cho nhẹ mình - Đủ thứ thuốc men, bệnh viện Đông Tây y rồi vật lý trị liệu, cao hổ cốt, thuốc thang, thuốc rượu... Đau vẫn hoàn đau! Cuối năm 1987, tôi đành phải xin nghỉ dạy ở nhà. Cũng chẳng nhớ bệnh hết tự lúc nào, chỉ biết là cho đến tận bây giờ không hề phát đau lại...

    Năm 1982 tôi được cử đi học khóa Hiệu trưởng 1 năm. Nhà nghèo, 5g 30 sáng phải trở dậy đạp xe cọc cạch từ Tân Thới Hiệp đến tận Đinh Tiên Hoàng SG để học, trưa 12 giờ lại đạp xe về! Cuối năm học tôi bị trúng mưa viêm phế quản đúng 3 tháng rưỡi. Ho liên tục cả ngày lẫn đêm, đêm không ngủ được, để 1 chiếc gối trước ngực dựa vách ngồi chịu trận và ho!

    Trường cho phiếu đi xét nghiệm đờm, nghi bị ho lao

    Tôi không đi vì sợ phải đối diện với sự thật mình sẽ bị tuyệt vọng - Sau 3 tháng rưỡi hết ho! Từ đó trở đi mỗi tháng 30 ngày tôi cảm hết 28. Viêm phế quản trở đi trở lại, tiếng lúc nào cũng khàn. Chích Streptomicine miết rồi 2 mông chai cứng cả dề, ngồi đứng cũng đau…

    Đầu năm 1994, tôi bị 1 cơn viêm phế quản nặng, sốt và rét liên tục! PB về bảo: “Con đừng điều trị hay thuốc men gì, ráng chịu đau đi, ta cho cắt cơn vĩnh viễn”. PB nói thì đừng có cãi, cãi là bị đòn chết thôi! Tôi không điều trị nữa, tối ngày hết sốt lại rét, ho ra đờm xanh tanh tưởi và thối như mùi cá chết...

    Xong trận viêm đó quả nhiên là đến tận giờ (14 năm sau) tôi chưa hề bị viêm phế quản lại lần nào nữa!

    Bù lại tôi bị giãn phế nặng - khí phế nghẽn, bị lên cơn hen và khó thở thường xuyên. Tim lúc thì loạn mạch, lúc lại nhảy điệu rock lên đến một trăm, trăm mốt nhịp! Huyết áp lúc lên 14, 15 - nhức căng cả đầu, khi hạ còn 10/8 chóng mặt buồn nôn...

    Từ năm 1994, sau khi cắt cơn viêm phế quản, tôi đổi sang rối loạn tiền đình! Mỗi cơn như vậy kéo chừng hơn 2 tháng - Cho tỉnh táo hoàn toàn, nghỉ dưỡng sức chừng nửa tháng hoặc mươi ngày lại bị tiếp trận kế, đến tận giờ phút này (sau 14 năm) cơn rối loạn tiền đình 10 phần chỉ còn lại 2 hoặc 3!

    Cứ bị chóng mặt buồn nôn, y hệt như say sóng, trời đất quay cuồng, hễ day trở là dội lên cơn buồn nôn hoa cả mắt. Aùnh sáng giữa ban ngày những lúc ấy tôi thấy màu khói xám như trời sắp trở mưa - Chỉ có 1 điều lạ là tôi chưa hề bị nôn lần nào! Và khi cơn hết thì cứ y như có ai cất đi tấm lưới màu trên đầu, mọi vật chung quanh sáng rực rỡ như bầu trời sau cơn mưa vậy…

    Tôi nghèo lắm, bạn ạ - Một thân một mình nuôi 3 đứa con, lại bệnh hoạn hoài như vầy phải nói là cực hình, vì bản thân tôi làm gì có tiền điều trị! Đau hết chịu nổi thì ra tiệm thuốc tây mua vài viên giảm đau, uống được vài hôm hết tiền lại nghỉ, để vậy mà chịu trận, bao giờ hết thì thôi - Không giỏi làm ra tiền, nhưng tôi giỏi nhịn chịu lắm! Miếng thịt miếng cá kiếm được giành hết phần con, bao giờ chúng ăn no, phần thừa mới đến mình - Cả đời tôi, tôi thường tự hào khoe là chưa hề biết thèm hay nghiện một thứ gì, tôi chỉ cần ngồi nhìn các con ăn là cũng no rồi! Tôi hay bảo: “Sao đàn ông yếu đuối quá vậy. Không nghiện thứ này thì thứ khác - Tôi có thì ăn, có thì mặc không có thì thôi, chẳng biết nghiện bao giờ!”.

    Thực ra mình chỉ giỏi khống chế chính mình thôi, phải không các bạn? Giống như ai đó đã nói: “Người ta nhổ vào mặt kẻ hèn nhát, hắn nói “trời mưa”!”

    Cuối năm 1998, tôi bị loạn mạch tim - Tim thường loạn nhịp, cơn kịch phát tay chân ríu lại, cứng cả hàm! Đang đi té vào tường, đang cầm chén cơm ăn ríu tay là chén cơm rơi vỡ tan tành…

    Mỗi lần lên cơn, tôi thuê xe ra BS Cự -Trần Hoài Cự.! Ông chỉ châm cứu xong, tôi đứng lên là khỏe mạnh bình thường trở lại, như chưa hề biết mệt bao giờ!

    BS Cự là BS trưởng khoa ngoại bệnh viện 175 đã về hưu. Duyên lành xui cho tôi gặp vợ chồng BS - Thấy hoàn cảnh khó khăn của tôi, anh chị Cự nhận làm em kết nghĩa và chữa bệnh, cho thuốc không lấy tiền...

    Có lần chị Cự vào nhà, thấy tôi bị bệnh cúm sốt nằm mê đã ba ngày không ăn uống và chẳng có viên thuốc điều trị nào, chị vừa lầm bầm cuốn mùng mền mở cửa dìu tôi ra nhà chích thuốc, vô đạm xong trả về! Trong những lúc bệnh hoạn ngã lòng được một chút sự quan tâm chăm sóc tôi mủi lòng đến rơi lệ. Má và các em tôi ở kề cận, nhưng chẳng ai biết rằng tôi bệnh và bệnh đến cỡ nào! Nó bệnh tưởng thì có - cái mặt lúc nào cũng tròn đầy, phốp pháp thế kia mà cứ than bệnh là sao?

    Tôi hay nói: “Mẹ đánh con không để lại dấu tích”. Nhìn bề ngoài, đố ai biết rằng tôi đang bệnh! Nằm mê mê trên giường, có ai đến là tôi chỉ cần chỗi dậy, rửa mặt, rửa tay xỏ bộ đồ dài vô ra chữa bệnh, đâu ai biết khi họ ra về tôi lại vùi mình trên giường trong cơn mê thiếp rã rời... Anh chị Cự hay nói: “Đừng ngại gì cả, em chữa bệnh cho người có lấy tiền ai đâu. Anh chị giúp em khỏe để em cứu người, anh chị cũng được phúc”

    Thế nhưng ngại làm phiền anh chị Cự, hãn hữu lắm những khi anh chị vào thấy tôi bệnh nằm, còn không thì tôi giấu biến. Điện thoại vào hỏi thăm, tôi nói: “Em khỏe re!”

    Những trận bệnh như vậy đều nặng và lâu đến nỗi lúc nào tôi cũng chán đời đến cùng cực và chỉ muốn được chết, đó như là một giải thoát, một cứu cánh! Cho đến tận giờ phút này, tôi vẫn không hề thấy luyến tiếc cõi trần này chút nào, và luôn muốn rời nó ra đi - Thiên đàng hay Địa ngục đối với tôi chắc cũng chẳng có nơi nào đáng sợ hơn cõi Người này!

    Thôi! Ngừng “ta thán” ở đây, tôi lại kể hầu bạn chuyện của tha nhân - Xem như nhắp ngụm trà thơm buổi sáng, lấy một chút ấm nồng xua băng giá mùa đông...

    THỰC HÀNH CỤ THỂ (3)

    Chị Hoa (con bà Hai) ở gần chỗ tôi bán báo. Một buổi sáng chị tới nhờ tôi coi xem tại sao dạo này trong nhà “loạn đủ điều” (theo lời chị nói)

    PB về bảo: “Nhà cô có một người nam chết vì bệnh dữ, thành quỷ về quậy trong nhà, nhập vào đứa em trai bị thọt chân. Hiện âm vong đang ở sau nhà tắm, chỗ có cây gì cao lúp xúp đang có trái!: “Hèn nào thằng Bình nó thấy gì đó, về đòi chặt bỏ cây ổi. Má chị không chịu, vì cây ổi xá lỵ mới ra trái chín ngon lắm”.

    Chị H nói chị có người anh trai chết vì bệnh thủy trướng, từ đó chị H ăn chay trường và tu tại gia đến giờ - Rồi chị bảo: “Thằng B từ trước giờ rất ngoan. Nay thì quậy phá đủ kiểu. Còn dám bóp cổ Má lấy tiền đi chơi nữa chứ! Mỗi buổi tối hễ chị tụng kinh thì B bỏ nhà đi chơi, tụng kinh xong nó mới về ngủ”. PB dạy cho cách nhận diện âm vong: “Tối nay, đợi đến lúc B về nhà chui vô mùng ngủ, cô lại lấy Chú Đại Bi ra tụng nữa, rồi sẽ biết!”

    Sáng hôm sau, chị H ra kể chuyện đêm qua làm y lời PB dặn. B đang nằm trên giường thét lên: “Chị điên sao mới tụng kinh rồi giờ tụng nữa vậy?”. Chị H không thèm trả lời - thế là B trùm mền kín mít, rên hừ hừ và lăn lộn trên giường, độ 15 phút chị H sợ quá không tụng chú nữa, B mới nằm im! PB dạy: “Lấy tấm hình thờ của người cha để nằm đè lên hình người anh, vong đứa con không xuất ra để phá được, xong lập bàn hương án dưới gốc cây ổi, xin phép thỉnh tấm hình PB đang thờ ra để đó tụng 3 thời Chú Đại Bi, PB ta về giải vong cho...Tụng kinh xong xịt dầu thơm tẩy trần để lên bàn thờ như cũ”. Từ đó trong nhà yên ổn như xưa…

    Có một chị tên là Thảo, vợ của một ông chủ trại cưa (nghe đâu ở xóm mới-Gò Vấp). Chị giận chồng xách túi lên ở nhà bạn. Chị T bị bệnh gì không biết đã 3 ngày nay, trên hai cánh tay và chân các mạch máu nỗi gồ lên khỏi da, bầm tím, giống in như con đường những con giun đội đất lên mà đi, trông thấy mà bắt rùng mình! Tôi trị cho chị đến ngày thứ ba thì hết hẳn - Chị T buồn khóc kể chuyện nhà. Tôi ứng miệng nói: “Có hộc tủ ở ngay bàn thờ ông Địa, tiền bạc để ở đó coi chừng mất. Còn nữa, chị đem túi xách của mình để qua bên kia đi! Tiền bạc mang theo nhiều quá lỡ mất ở đâu tôi bị mang tiếng”. Chị T phải nhận là đúng và cảm ơn rối rít.

    Phong, em trai thứ năm của tôi bị chạm xe - Cả phần ngực trái sưng lên đỏ bầm, khó thở! Tôi chẩn xong bảo: “Chỉ bị phần mềm, không ảnh hưởng cơ quan nội tạng. Đi BV làm xét nghiệm lại cho chắc ăn”. Quả thật, BV cũng kết luận y như vậy. Tôi chữa 6 lần (4 ngày) hoàn toàn trở lại bình thường!

    Năm 1990 có cô gái tên K, người Tàu lai ở gần nhà của tôi, thường hay sang chơi và tâm sự - Cô nói: “Nhà em có một xưởng dệt bị phá sản, ba mẹ em buồn chỉ muốn chết! Em quyết định lấy một người không yêu làm chồng để “bù của” cho nhà em. Anh này giàu lắm, có trại bò sữa hơn trăm con, chị xin PB về hỏi giúp cho em chuyện này xem sao”.

    PB về nói: “Ta soi căn tiền kiếp cho cô biết nha! Trước cô là một người đàn ông họ Mạc ở tỉnh Thiểm Tây Trung Quốc. Người ấy có tội tư thông với vợ của người bạn thân, kiếp này trả nghiệp phải thất tiết với người không phải là chồng mình. Và lúc này chính là lúc cô phải trả nghiệp đó”.

    Cô K không tin vẫn tiến hành đám hỏi rình rang, còn lớn hơn cả đám cưới nhà người! Chỉ nữa tháng sau, biết chuyện gia đình cô K phá sản, vị hôn phu sỉ nhục cô K đã muốn lừa mình để lấy của - K tức quá hồi hôn, trả lễ vật lại cho đàng trai!

    Thế rồi việc gì đến đã phải đến: Chàng trai thuê năm tên du đãng bắt cóc cô gái ra Vũng Tàu thuê phòng ở 1 tuần sau mới trả về - bánh xe luân nghiệp vẫn đi đúng con đường của nó...

    Cho dù được cảnh báo, mấy ai dễ tin tưởng vào những lời phán bảo vô căn cứ, bởi lòng tham đã làm mờ mắt con người mất rồi! Kho tàng trước mặt trăm người hết chín chín kẻ chỉ muốn vục tay vào, cho dù có phải đánh đổi đến thế nào cũng mặc! Oâi nhân loại, tại sao người ta chẳng ham sục sạo kho tàng tri thức nằm kia, dấu bụi trầm tích của thời gian vùi chôn lớp lớp - Thế nhân ơi, sử thi kim cổ còn ghi, vạn vạn Thánh nhân Hiền triết, đời nay mấy kẻ noi gương?

    Đạo pháp lưu truyền khắp cõi, Kinh luận Giáo điều ra rả bên tai, sao chẳng để tâm lóng tìm, theo dấu? Ai ai cũng ra sức dấn bước trên con đường hoạn lộ: sắm thêm cái xe đẹp, cái áo mới, cái nhà sang! Quán bar, hý viện, vũ trường mọc lên như nấm, trong lúc trường học, Giáo đường, Thư viện Đình chùa xuống cấp, bụi bám, nhện giăng...

    Thôi thôi, có lẽ tôi đã đi xa đề mất rồi, mời các bạn trở lại hành trình khám phá “Huyền Môn”!

    LIÊU TRAI (3)

    Cứ mỗi đêm, khi tôi ngủ say là lúc “Điển ông”đi về cõi Trên. Chỉ cần tôi cựa mình thức giấc, cất tiếng rên là lại thấy ông giở màn chui vô: “Anh đây, anh về đây”. Nếu ông bận việc đi cả đêm, thường cho người về canh nhà giúp tôi! Ông nói: “Xác trần có phần về nhập là xác trống, giống như mảnh đất lạ có người bắt cây cầu sang! Một người sang được thì 10 người sang được - Anh không cho người về canh nhà em sẽ bị phần âm về quậy”.

    Có đêm tôi giật mình thức giấc, người vẫn nằm trên giường nhưng vía thấy đi ra phòng khách gặp 1 cô gái trẻ đẹp mặc đồ lụa trắng thắt chẻn ngang eo. Tôi hỏi: “Ai đó”. Đáp: “Tôi là Huyền nữ”. Tôi hỏi: “Ngồi đây làm gì?” Lại đáp: “Canh nhà” - hỏi nữa cứ vờ như tượng đá chẳng trả lời gì!

    Có lần thấy mình đi ra giữa sân lúc nửa đêm, thấy có 1 người đàn ông mặc áo thụng bằng gấm đen đồng tiền thật to, đầu đội mũ cánh chuồn đen và cũng đi đôi hài gấm màu đen. Tôi lại hỏi: “Ai đó”. Đáp: “Tôi là Chư Thiên”. Tôi hỏi: “Đứng đây làm chi?” - “Canh nhà”. Câu trả lời y như một lập trình, hỏi nữa cũng chẳng thèm đáp lại một tiếng...

    Chừng như Ông chỉ đi vào ban đêm, và đêm nào cũng đi vào lúc tôi đang ngủ. Nếu tôi tình cờ thức dậy, ngồi lên là lại thấy ông về, tôi có hỏi thì ông nói: “Anh đi làm việc, anh còn nhiều trách nhiệm. Nhưng anh chỉ đi vào lúc em ngủ thôi, khi em thức là anh về”... Lúc tôi có khách hay các em tới chơi thì ông đi mất, khi cần làm việc liên quan tới âm phần lại thấy có ông rồi, mặc dù ông không hề ra mặt, nhưng tôi biết đàng sau mình, vẫn có ông lặng lẽ hỗ trợ. Thời gian đầu tôi bị phần âm đánh hoài, trong lúc đang truyền điện cho bệnh nhân thì họ thừa cơ đánh lén, chỉ thấy mình xây xẩm choáng váng rồi ngã y như bị trúng gió, phải có người dìu dựa vào ghế ngồi 5 phút thì hết!

    Những lúc như vậy tôi khóc và cằn nhằn ông ghê lắm. Ông nói: “Rồi em sẽ học được kinh nghiệm từ những cú ngã đó. Anh ở sau lưng em, anh không để cho ai làm hại em đâu!”

    * Trong thời gian tôi bị loạn mạch tim, đành phải năn nỉ gởi con cho Ba chúng nuôi giúp (trong hơn 1 năm). Có 1 lần bé Ti bị Ba đánh - bèn bỏ nhà đi, trốn theo bạn về thành phố. Ông Điền điện về không có con hốt hoảng, còn tôi thì khóc ròng, cầu xin PB về giúp! Người nói: “Nếu con nguyện cạo đầu ta đưa nó về cho con trong vòng hăm bốn tiếng đồng hồ”. Tôi đồng ý, đến sáu giờ tối ngày hôm sau tôi vẫn chưa thấy tăm hơi thằng bé, mọi sự tìm kiếm đều vô vọng...

    Do quá lo lắng, tôi đi rước bé Chi trễ giờ đón trẻ, đó cũng là thời khắc định mệnh! Tôi gặp bé Ti (lúc ấy 12 tuổi) đang đi với mấy đứa bạn, thế là tôi bắt nó đưa về! Thằng bé bảo: “Con nhớ mẹ định nửa đêm trốn về thăm nhà rồi sáng mai theo 2 thằng bạn lên thành phố bán bánh mì với nó”.

    Sang ngày hôm sau tôi khấn xin xuống tóc tạ lễ với PB, Người về nói: “Ta thử con như vậy thôi, đừng xuống tóc làm gì! Ngồi bán sách báo mà cạo đầu ai coi cho được”. Vậy đó, tấm lòng Bề Trên rộng lượng và bao dung như thế, nhưng khi cần thiết thì cũng lạnh lùng như băng giá - Tôi ngẫm câu “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”, mà thấm thía: Roi của Mẹ đánh con đau lắm, nhưng ngọt bùi Mẹ cho cũng thấm thía lòng trần!

    Ngày xưa, trong nhà tôi có điều kỳ lạ xảy ra gần như đã có lập trình sẵn rồi: Ngày Rằm, ngày Vía nếu tôi cúng hoa Vạn thọ trên bàn thờ là y như rằng qua 1 đêm tất cả các cánh hoa đều được ngắt ra để nằm gọn vun 1 dúm ngay chính giữa bàn thờ, đàng sau các lư hương! Ba bàn thờ là ba dúm hoa như nhau, điều lạ lùng là cả bình hoa còn nguyên vẹn, không hề có dấu tích của bàn tay phá hoại và những đóa hoa Vạn thọ còn nguyên cả cuống cả đài, giống như có ai đó đã tẩn mẩn chơi 1 trò chơi lạ, đánh đố kẻ phàm nhân...

    Một lần trong nhà có con gà mái đẻ trứng so (lần đầu tiên). Phải nhốt cho nó quen ổ mới. Tôi đem cái thúng to để vào đấy nắm lá cọ cho êm, lót lên trên bao gạo gấp làm tư rồi để cái trứng và con gà mái, úp lại bằng 1 cái trạc (loại đan bằng tre nứa dùng để nhốt gà) xong lại cẩn thận đè lên trên bằng 1 khúc gỗ lớn!

    Buổi trưa tôi đi dạy về, đố bạn biết điều gì đã xảy ra? Con gà mái không đẻ trứng nào, nằm ôm cái trứng cũ ngoài đất, cách chừng 1 mét - cái trạc úp ở ngoài còn nguyên, khúc gỗ chặn trên cũng còn! Tôi mở trạc ra, đứng ngẩn người nhìn bao gạo gấp tư nằm gọn dưới đáy thúng, nắm lá cọ trồi lên trên. Ai muốn chứng tỏ sự có mặt của mình trong căn nhà khóa cửa, không người?...

    Một buổi trưa, tôi tìm mãi không ra cái đế cắm nhang muỗi, lầm bầm: “Nhà có 2, 3 cái mà giờ mất cả rồi”. Tôi cầm cây chổi đi quét nhà - tự nhiên, từ trên đầu phía sau lưng có ai đó ném cái đế cắm nhang bay qua đầu tôi rơi xuống ngay trước mặt, cùng với tiếng cười của Ông vang lên trong đầu...

    Tôi bị mất xâu chìa khóa. Tìm lung tung mãi không có, tôi vái Ông tìm giúp, rồi bỏ đi bắc nồi nấu cơm! Lát sau lên nhà, vừa sục tay vào định tìm, xâu chìa khóa đã nằm gọn trong mấy quyển sách, 1,2 chiếc chìa đong đưa như trêu cợt trước mắt tôi...

    Có lần tôi đang ngồi xem ti vi thì ông về tới. Lúc đó ngoài trời đang mưa lớn, tôi thấy ông mặc 1 chiếc áo Ba đờ suy dầy và mịn rất đẹp. Vào nhà, ông móc trong túi ra 1 nắm trà, cọng trà se lại nhỏ xíu trông rất khéo, tỏa mùi hương thoang thoảng. Ông nói: “Chè mạn đó, thơm không?”

    Rồi lại móc từ túi bên kia, cẩn thận mang ra 2 chùm hoa nhỏ xíu rất lạ đặt vào lòng bàn tay tôi: “Tặng em nè”. Tôi nhặt lên 1 chùm hoa trông y như Mai chiếu thủy, nhưng cánh lớn và dầy hơn một chút, hoa màu trắng kem (mai chiếu thủy có màu trắng muốt). Ông bảo: “Đây là hoa Xu xi, còn đây là hoa Ngọc trâm. Hai loại hoa này ở tận trên tầng cây cao ở Ba Núi, anh hái về cho em đó! Đặc biệt vào mùa khí trời lạnh giá hoa mới nở, càng lạnh hoa lại càng thơm”

    Hoa ngọc trâm trông mường tượng như cây trâm cài đầu với nhiều đóa hoa nhỏ xíu chung quanh, màu trắng long lanh như những viên ngọc - cả hai loại hoa đều có mùi thơm nồng và lạnh, cứ y như vừa lấy ra từ trong ngăn tủ lạnh vậy!

    Tôi hỏi: “Ba Núi là ở đâu? Nó trông như thế nào?” Ông nói: “Là nơi ba ngọn núi cao ngất chụm đầu vào nhau. Quê hương của các Thánh ở đó. Để hôm nào anh dẫn em lên núi chơi”

    Ngày ấy đã đến - một đêm PB về bảo tôi: “Dỗ cho trẻ nó ngủ sớm, ta đưa con về thăm Ba Núi”. Sau khi con ngủ, tôi trở dậy thay áo bà ba trắng, lên giường chui vô mùng ngồi xếp bằng, xuất hồn đi theo PB! (ngày trước nhà tôi còn đất rẫy tập đoàn phía sau, chiều tối là muỗi nhiều lắm không vô mùng sẽ bị muỗi cắn, khó mà tỉnh tâm được). Khi tôi xuất hồn đi như vậy, người vẫn tỉnh táo hoàn toàn, đến nỗi khi 2 đứa con mê ngủ lăn trúng, tôi khe khẽ đẩy chúng xê ra và vẫn tiếp tục đi - Độ 1 lát nghe tiếng bầy gà kêu ngoài sân, lúc trời đang mưa, tôi còn xin phép cho ngưng để trở dậy, bắt nhốt bầy gà, xong vào ngồi xếp bằng lại đi tiếp, không hề có trở ngại gì!

    PB dẫn tôi đi loanh quanh 1 con đường nhỏ lên cao dần trên núi, tôi lờ mờ thấy như một bên là vực sâu, 1 bên tay trái có trồng nhiều cây cao ngang tầm người, trái giống trái na (mãng cầu ta).

    Lên đến đỉnh núi, trên ấy mặt bằng rất rộng, có nhiều căn nhà nho nhỏ xinh xắn, nhà tây nhà ta có cả - căn lợp ngói, căn lợp lá xé, lá chằm - lại thấy một nơi lợp bằng lá rộng và dài như hội trường, trong đó để hai dãy bàn ghế thật dài, phủ khăn màu xanh! Trên bàn bày thật nhiều thức ăn, hoa trái rất lạ và những chai, ly bằng pha lê óng ánh một thứ nước màu xanh, màu hồng rất đẹp - Tôi nghĩ thầm trong đầu: “Cõi trên mà cũng uống rượu nữa sao?” PB cười bảo: “Nước quả đó, uống thử xem”. Đoạn đưa cho tôi một ly nước màu xanh, vị thơm ngọt, uống vào đến đâu biết đến đấy!

    Lại thấy những đĩa thức ăn như đồ chế biến sẵn thành viên hình tròn, vuông, hình chữ nhật... nhiều màu. PB gắp bỏ vào miệng tôi - chưa kịp nhai đã gần như tan ngay trong miệng vị mằn mặn, bùi bùi lại ngòn ngọt, rất là ngon!

    PB kéo ghế, bảo tôi ngồi xuống. Tự nhiên tôi thấy trôi tới trước mặt mình những hình ảnh của nhiều người, mỗi hình ảnh chuyển tới trước mặt tôi, trụ lại chừng hai giây, ai cũng vẫy tay chào rồi trôi đi mất - Cùng với lời giới thiệu của PB vang bên tai: “Nhà bác học Einstein, Tưởng Giới Thạch, Laphongtaine, Pascal...” Còn nhiều nữa mà tôi chịu không nhớ hết!

    PB lại dẫn tôi ra sân. Ở đấy đã có sẵn rất nhiều người, tiếng nói nho nhỏ, lao xao nhưng tôi cố nhìn mà chẳng thấy tận mặt ai và cũng chẳng nghe được họ nói điều gì!

    PB giới thiệu tôi là: “Thánh Cô Lan”. Tất cả đồng vỗ tay! PB hỏi tôi 3 câu hỏi đến nay tôi chỉ còn nhớ được 1 câu: “Hoa mùa Xuân là hoa gì?” Tôi đáp: “Hoa Xuân”.


    PB lại hỏi tôi tại sao trả lời như vậy - Tôi nói: “PB hỏi hoa mùa Xuân chứ đâu hỏi hoa ở xứ nào!” Tất cả mọi người đồng vỗ tay, PB cũng mỉm cười mãn nguyện…

    Nguyên có một điều lạ là xác trần của tôi khờ khạo, nhút nhát và chậm chạp bao nhiêu thì linh hồn (hay thể vía) của tôi lại khôn ngoan, ranh mảnh bấy nhiêu! Từ suốt ngần ấy năm, vạn vạn lần ứng xử với các Đấng cũng như các cõi Âm phần tôi chả thua ai! Chỉ có PB là tôi thua - Người rất thông minh, chặn đầu chặn đuôi một hồi là tôi bí!

    Đây cũng là trò chơi mà PB thích nhất, và cũng là cách làm tôi khổ sở suốt ngần ấy thời gian: về lúc nửa đêm, dựng tôi dậy lục vấn đủ mọi chuyện trên trời dưới đất - Khi PB rời đi là tôi thức luôn tới sáng...

    Đến tận sau này tôi mới hiểu là PB đang luyện để tôi “cao tay ấn”, tự mình biết quyền biến trong hành xử với các cõi, để không “bị động” hoặc phải chịu thua, cầu cứu Ơn Trên!

    Làm một Sứ giả, một nhịp cầu nối như tôi không dễ, luôn phải căng thẳng đầu óc để suy nghĩ, trong chớp mắt tìm ra cách ứng xử để thủ thắng, đưa phần âm (hoặc Linh căn) vào chỗ thúc thủ, hoặc là “há miệng mắc quai” phải chịu thua mà “tâm phục khẩu phục” để trả tự do lại cho xác trần! Và điều quan trọng là lấy cái Tâm Đức Từ Bi của Nhà Phật mà chiêu dụ, mà khuyên can, không phải dùng tới quyền lực và sức mạnh (trừ những phần âm càn quấy, hung hãn vừa nhìn thấy đã tiến đánh. Với những người này tôi bắt trói lại, có lúc nhốt 1 tuần lễ, cho tiền bạc lộc thực rồi thả ra). Các bạn sẽ biết chuyện này vào đoạn sau…

    SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC TINH CHỦ VỀ Y THUẬT

    Tháng 7/1989, con trai thứ hai của tôi được ba tuổi rưỡi. Một sáng nọ đột nhiên bị phù cứng cả mặt, hai mắt chỉ còn như kẻ chỉ, một bên cổ nổi lên 4 cục hạch sưng to rất đau không day trở gì được! Sáng đó trời mưa bão tối đen, nhà lại mất điện - Má tôi bảo: “Nó bị bệnh tràng nhạc, bệnh này nặng lắm, đưa đi BV ngay kẻo trễ”.

    Tôi thắp nén hương cầu xin PB về, Người bảo: “Để ta cho Thầy về trị cho cháu nghe!” chợt thấy có một ông lão người gầy và cao da ngăm mặc chiếc áo chùng đen - chân đi dép cỏ, ngang vai khoác một tay nải bằng vải màu nâu. Ông nói: “Ta làm cho thằng bé 10 phút sau hết phù, con thưởng gì ta? Nửa con vịt quay nhé!” Tôi bảo: “Con tạ ơn Ông nguyên con” Ông cười: “Nói chơi thôi, ta ăn chay mà”!

    Rồi hỏi tôi xem trong nhà có vật gì bằng kim loại không - Tôi tìm mãi mang ra cây kim may tay! Ông cầm cây kim day ấn vào các huyệt trên người bé Ti, cách làm nhanh và điệu đàng, lã lướt in như bàn tay khảy trên phím đàn - Tôi nhìn đến say mê! Tuy nhiên, khi Điển nhập vào tôi mà làm, tôi nhìn bằng “thể vía” thấy tay mình ra tay ông lão ấy, năm ngón gầy đét, móng tay dài và đầy cáu bẩn. Thấy tôi nhăn mặt, ông nói: “Tay ta dơ quá phải không? Hái thuốc cả ngày sạch làm sao được.”

    Tôi lại hỏi: “Con nghe người xưa nói: Chân đi hài cỏ sao ông lại đi dép?”. Ông bảo: “Đi trong rừng mang hài có mà ngã té què chân - mang dép hai ngón kẹp quay đi mới dễ”. Một chốc sau, thấy đôi mắt bé Ti mở lơn lớn, PB nói “Con đem cháu ra chỗ đèn sáng, ấn ngón tay vào cơ bắp, nếu buông ra thịt không còn dấu nún xuống là hết phù”. Tôi làm y như vậy, quả nhiên bé Ti không còn bị phù nữa, chỉ sau 10 phút!

    PB lại bảo: “Cháu nó bị viêm tuyến Ba-tô-lin, là tuyến nước bọt đó - không sao đâu! Con lấy chai nước nóng bọc khăn chườm, chừng 2, 3 ngày hạch sẽ lặn hết cho coi”.

    Bạn đọc thấy sao - tất cả các phương tiện y học hiện đại, có phương pháp nào làm hết phù sau 10 phút không? Ta còn phải phục người xưa dùng từ khoa học chuyên môn: tuyến Ba-tô-lin!

    Tiên ông bảo: “Ta là Thái Thượng Lão Quân – Hiệu Phổ Am Thiền Sư, Lý Bá Chánh danh” PB nhờ ta truyền phép điểm huyệt, bấm huyệt cho con. Gọi ta bằng Thầy nghen!”

    Tôi lại mở ngoặc để thưa với các bạn đọc rằng: nguyên văn thầy Thái Thượng nói như vậy, tôi không có điều kiện để tra cứu thực hư!

    Thầy còn kể chuyện thầy tự tay đi hái thuốc trong rừng như thế nào...Rằng thuốc có nhiều loại - vị bổ phải hái lúc sáng sớm, vị độc nhiều phải hái vào lúc giữa trưa và có loại phải hái lúc nửa đêm, có loại phải theo mùa, theo tiết nữa...Tôi hỏi: “Nếu Ơn Trên chuẩn cứu 1 người bệnh ở cõi trần thì cứu bằng cách nào?” Thầy cười đáp: “Thì cũng y như cõi trần vậy thôi! Ví dụ người bệnh đó có người bà con là phần Linh căn ở trên: Thánh, Thần, Tiên, Phật gì đó… Họ đến cầu cứu thầy, xét thấy hợp căn, hợp mệnh thầy ra phép cứu - Ở dưới trần sẽ xoay chuyển cho có người chỉ cho một phương thuốc đơn giản nào đó, thế mà khỏi bệnh, vậy thôi”

    Huyền nhiệm ở chỗ là tôi không hề tu học ngày nào về Đông, Tây y, về phép chẩn bệnh, điểm huyệt... Thế mà tôi ấn vào đúng huyệt không sai! Về sau ngày càng tiến bộ, tùy bệnh trạng mà day, ấn, xoa, vuốt... vào huyệt vị hoặc kinh mạch!

    Có lần tôi tìm được đồ hình huyệt vị trong con người, nhìn đến hoa cả mắt, học mãi mà chẳng nhớ tên huyệt nào, cứ như bị trêu ngươi, che mắt vậy! Thế mà có bệnh nhân tới, tự bàn tay tôi làm thành thạo như từ trong tiềm thức đã chuyên…

    Đến giờ này, tôi mới tin là có tiền căn, hậu kiếp! Con người ta đâu từ thuở hồng hoang đã biết hết mọi điều, cho dầu đơn giản nhất. Đã có bàn tay các Đấng trợ giúp hoặc ứng về ai đó để tự nhiên mở khẩu truyền thông tin, hoặc theo như lời PB giảng: Tất cả những Thiên tài, Bác học, Thần đồng, những nhà phát minh hoặc các bậc Danh sư, Thần y... đều do các Đấng sai xuống để hỗ trợ con người. PB nói: “Trần gian là cõi trung chuyển, là lò tôi luyện hoặc chốn hành Đạo, trả nghiệp...Các cõi khác đều từ nghiệp quả trần kiếp mà luân chuyển!”

    Nguồn cội từ cái nhân mới sinh ra cái quả. Người trần không biết, cứ lo tạo tiện nghi vật chất mà quên rèn luyện, nâng cao tâm hồn mình - Chết rồi quay lại nhìn chẳng thấy nắm được gì trong tay ngoài gánh nghiệp vương mang, luân hồi thác sinh kiếp khác vay trả báo đền, thảm thương biết mấy!

    Tháng 6/1990, con trai lớn của tôi lúc ấy 6 tuổi. Một đêm nọ sốt cao liên tục cả đêm, đến 3g30 sáng thì bại liệt cả người, không còn nhúc nhích được nữa, cả người bé nóng ran, nói sảng lảm nhảm... Tôi sợ quá cầu PB cứu. Người về nói: “Để ta cho nó hết sốt, ngủ dậy thì khỏe liền”.

    Mới loay hoay, bé Tí đã lăn ra ngủ, sờ tay vào thấy hạ sốt rồi! PB ngồi lại với tôi nói chuyện đến 5g kém 10 phút Đài Truyền thanh của Xã phát, cháu ngồi dậy mừng rỡ: “Mẹ ơi con nhúc nhích được rồi, con hết bệnh rồi”...

    Nhân đây, tôi kể luôn cho các bạn nghe nhân duyên tôi được 2 vị thầy nữa về trợ cho tôi chữa bệnh cứu người.

    Vài tháng sau khi Thầy Thái Thượng về, lúc nửa đêm trở dậy, vía tôi thấy mình đi ra nhà trước, thấy có 1 Tiên Ông ngồi trên đầu tủ. Thấy tôi ông cười bảo: “Biết ta là ai không? Đoán đúng ta nhận làm đệ tử”. Trong đầu tôi vang lên lời nhắc. Tôi bảo: “Hải Thượng Lãn Ông”. Người nói: “Lạy ta 3 lạy ta truyền nghề thuốc cho”. Tôi quỳ lạy, đứng lên nghe người nói: “ Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là thầy. Thầy có viết bộ sách “Hải Thượng y tôn tâm lĩnh” gồm 4 quyển, con tìm đọc đi”

    Sáng hôm sau, tôi hỏi một người biết về thuốc Đông y, họ xác nhận đúng y như vậy! Từ đó, bệnh nào nặng hoặc bị hành căn, khó chữa tôi lại xin thầy về chẩn mạch và cho thuốc. Thường thầy hay cho những vị thuốc Nam

    dễ tìm ở ruộng đồng bờ bãi hơn là những vị thuốc Bắc đắt tiền. Thầy dạy rất kỹ: Loại này phơi âm can, gần khô thì sao, hạ thổ, loại kia ngâm nước cơm vo qua đêm, rửa lại rồi phơi ráo ngâm rượu...v.v

    Đa số các bài thuốc Thầy cho thường có 5 vị; hoặc chỉ độc 1 vị cây cỏ đơn giản mà uống hết bệnh. Thầy dạy, tôi chỉ nhớ loáng thoáng: thuốc có mấy vị: Quân, Thần, Tá, Sứ - mạch có: trầm, phù, trì, xác (?). Chứng có: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa…

    Tôi nhớ mang máng như vậy, nếu viết lại có sai xin các bạn đừng cười tôi nghe!

    Thầy dạy tôi cách thăm khám (nói đúng hơn là Thầy “nhập thần” vào tôi để chẩn bệnh, tôi nghe mãi rồi thành quen tai). Khi bệnh nhân đến, tôi hay hỏi nhẩn nha, dông dài: “Anh (hay chị) làm nghề gì? Có mấy cháu? Hoàn cảnh đầy đủ hay khó khăn, bệnh phát lâu mau? Chứng như thế nào? Ăn ngủ có đúng giờ, ăn có ngon miệng không?...” Hỏi xong rồi chẩn mạch (thực ra tôi có biết nghe mạch đâu, tôi chờ nghe thầy nói đó thôi) và thầy chẩn cho ai cũng chính xác, mọi người đều phục!

    Tôi cũng không nhớ rõ từ lúc nào thầy đã “truyền thần” cho tôi hoàn chỉnh, chỉ biết là cho đến về sau này, tôi tự đặt tay lên mạch là nói đúng y, không cần phải chờ nghe thầy phán nữa! Tôi còn nghe được cả trong các cơ quan nội tạng, chỗ nào có trục trặc là tôi cảm nhận được ngay…

    Từ ấy đến nay, có nhiều vị thuốc lạ Thầy truyền lại cho tôi và tôi đã chữa cho nhiều người hết bệnh. Tôi không thể nhớ hết được. Xin để đoạn sau tôi sẽ chép lại tặng bạn đọc, giờ tôi xin phép kể tiếp về sự xuất hiện của “Tinh chủ y thuật” thứ ba để cho câu chuyện có mạch lạc, vậy nhé!

    Một buổi tối, tôi đang sửa soạn đi ngủ, thầy Thái Thượng bước vào, theo sau là 1 người hình tướng rất kỳ lạ: Người to bè, tóc cứng như rễ tre, trán dẹp, môi dày thâm đen – đi chân không trên đất và đặc biệt là đôi bàn tay, bàn chân to và thô nhám rất khác thường! Thoạt nhìn, tôi đã nghĩ ngay: “chắc là người tiền sử”.

    Thầy Thái Thượng nói: “Đây là Thần Nông; người về trợ duyên cho con đó”. Tôi xá Thầy 1 cái cảm ơn! Thần Nông nói: “Người ta tặng cho Thầy biệt danh là Vua nếm thuốc. Thầy có để lại cho đời tập “Thần Nông bản thảo” dày hơn 700 trang đó”. Tôi hỏi: “Sao Thầy đi chân không vậy, gai rừng đâm đau chân làm sao?”, thầy bảo: “Thầy đi chân không quen rồi, da chân dày thế này, gai nào đâm được” Thầy trò cùng cười!...

    Thầy lại bảo tôi: “Mai mốt con chuẩn bị thu xếp đi vài ngày, thầy sẽ dạy con nếm thuốc! Phải tới nơi bờ sông bãi sú thì mới có nhiều vị thuốc” Thầy còn dạy tôi (y như dạy một đứa trẻ mới học vỡ lòng): “Con mang theo một con dao, đồ bấm, bao nilon, 1 quyển tập, viết...Thầy dạy con ngắt lá hoa hoặc trái của cây thuốc để làm mẫu - con bỏ vào bao, bấm cứng vào trang vở, xong mở lên ghi ở dưới công dụng, cách thu hái và chế biến, liều lượng”

    Một dịp may có 1 không 2 trên đời, thế mà tôi đã để vuột mất... Hoàn cảnh gia đình lúc đó khó khăn làm tối mặt chưa đủ miếng ăn, bỏ việc đi chơi rong thì chết đói mất!

    Sáng hôm sau tôi kể lại chuyện này cho các em tôi nghe - Quang, em trai thứ sáu của tôi nói: “Chị bị bệnh hoang tưởng mất rồi, Thần Nông là ông vua dạy nghề nông bên Tàu mà chị nói là thầy thuốc”. Ngay chiều hôm đó, quyển đặc san “Thuốc và sức khỏe” có viết 1 đoạn như sau: “Người đời xưa truyền tụng Thần Nông là Vua nếm thuốc – ông còn để lại cho đời tập “Thần Nông bản thảo” dày 750 trang...”

    Vậy đó, đa số những điều “Điển” về nói với tôi gần như ngay lập tức có tài liệu minh chứng kèm theo, chuyền vào tay tôi bằng cách nào chưa kể, có điều sự huyền nhiệm thì đã hẵn!

    Đêm sau, tôi nhớ mang máng vào độ tháng 7/1996. Lúc 11 giờ đêm, ba vị Thầy về cùng một lúc dạy tôi học thuốc - để các bạn thấy thêm một điều kỳ diệu, tôi phải giải thích thêm một chút: tôi vốn cận thị 3 độ, mắt rất kém! Bóng đèn ngủ (loại bóng cà na màu đỏ) gắn trên cao hơn 2m. Ngay 1 người tỏ mắt cũng không thấy được gì, nữa là tôi!

    Thế mà Điển Thầy về nắm tay tôi viết 8 trang giấy học trò, dạy cơ bản về phương pháp chẩn bệnh, nói sơ về các huyệt chủ và các vị thuốc điều trị bệnh. Chỉ tiếc là qua bao thăng trầm dời đổi tôi đã để thất lạc gần hết, nay còn lại một ít cũng xin chép lại đây, mặc dù thực hư tôi vẫn chưa có cơ hội kiểm chứng.

    Thần phương: (Xem lại bản gốc)

    Chữa bệnh cốt cần an huyệt, thông huyệt. Khi huyệt, mạch lưu thông không còn ách tắt thì bệnh hết. Thuốc không cứ là loại nào, nguồn gốc từ đâu, chỉ cần sao chế đúng cách là sử dụng được!

    Người tạng nhiệt thì bình ôn, tạng hàn thì chỉ nhiệt, khí trệ thì bổ khí, tâm hư thì an tâm, tỳ yếu kiện tỳ, vị yếu bổ vị...

    Khí hư thì tâm phiền, tích nhiệt, trích đờm! Tâm hư thì mất ngủ, phiền não, hay lo sợ, hồi hộp, làm mệt. Tỳ yếu biếng ăn, khó tiêu, hay đi cầu, ấm ách bụng thường xuyên. Vị yếu cũng lười ăn, khó tiêu (vị yếu đi kèm với các chứng của tâm hư)

    Đàn ông chủ thận, đàn bà chủ huyết!

    Đàn ông hư thận sinh chứng đau thốn bên hông trái, tiểu dắt, tiểu nóng, đỏ, khai nhiều, lâu dần đi tiểu đục, chân khí tiêu hao, người nóng nhiệt, mắt đỏ...

    Đàn bà huyết hư đau cả 2 bên hông, người gầy yếu xanh xao, có kỳ hành đủ chứng, khó ngủ, hay hồi hộp, cáu gắt, tâm phiền nhiệt, hư tỳ vị, bế huyệt mạch, khí không thông, mắt mỏi thường xuyên, tay chân run rẩy...

    Có 360 huyệt mạch chính trong người. Chủ yếu là huyệt Bách Hội (ngay giữa đỉnh đầu điểm thẳng xuống). Day 5 ngón tay chung quanh là kiện toàn bổ túc!

    Trước tiên bắt mạch định bệnh, bấm huyệt đỉnh đầu để khai thông kinh mạch, sau bấm huyệt tùy theo bệnh chứng (mất...)

    Các loại cây lá chủ trị từng loại bệnh (không cần dùng kèm)

    Ích mẫu: Khai thông huyết mạch, kiện toàn cơ thể phụ nữ (nhất là người mẹ), trị hư huyết, tâm phiền, đau bụng khi hành kinh.

    Ngải cứu: Đặc biệt dùng chữa chứng đái dắt đái buốt (viêm đường tiết niệu), làm thông khí, hạ đờm. Ho có đờm: lá tươi đâm lấy nước uống không cần liều lượng. Đái dắt đái buốt: lá tươi uống hay nấu nước dùng sau 1 lần hiệu nghiệm ngay tức thời, uống 3 ngày hết viêm đường tiết niệu!

    Lá chanh chữa bệnh đau gan, xơ gan trướng bụng: Mỗi ngày sử dụng chừng 1 dúm lá tươi nấu 3 chén nước, chia làm 3 lần uống lúc bụng đói, chừng nửa tháng bụng tiêu!

    Trái chanh non: bằm nát chung quanh cả vỏ, vắt lấy nước bỏ đường uống lúc bụng đói trị ung thư gan mới phát, nửa tháng có tác dụng, dùng đến khi xét nghiệm lại hết hẳn mới thôi!

    Hạt cây đậu ma (còn gọi là cây sục sạc): Loại hạt sử dụng trong gói trà thanh nhiệt (không kể hoa hòe, cam thảo). Dùng lâu dần trị được chứng tâm phiền, não nhiệt, làm dịu mát cơ thể, chữa thần kinh suy kiệt (stress), ngủ an giấc không mơ ác mộng, tay chân hết run. Sử dụng liên tục cả đời đều tốt, (cần sao hơi cháy mới nên thuốc).

    Cỏ mực: Người nóng nhiệt nấu nước uống, trẻ nóng sốt cao vắt nước cho uống hạ nhiệt mau hơn thuốc tây. Trị đau nhức khắp mình mẩy, tay chân rũ liệt trong bệnh cảm, trúng gió lấy cỏ mực nấu nước uống thì hết!

    Lá giấm: Bó gân, xương - thông tiểu tiện, viêm đại tràng, táo bón - hơ lá cho nóng già áp lên chỗ viêm vài lần trong ngày, bất cứ sưng nhiệt hay mụn nhọt đều hạ rất nhanh! Bong gân đau xương hơ nóng lá đè lên chỗ đau 2, 3 lần trong ngày, chỉ 2, 3 ngày thì khỏi - tiểu không thông, táo bón, viêm đại tràng nấu nước uống (trái lá đều dùng được)

    Hoa quỳ (dã quỳ): Trẻ bị huyết vận vò nát đắp lên khắc tan trong 1 tiếng đồng hồ. Hoa quỳ (cánh hoa) trị chứng sốt khát nước, nóng tiểu rát, viêm phần phụ của đàn bà, viêm đường tiết niệu, tuyến tiền liệt của đàn ông. Cánh hoa chưng cách thủy với đường phèn uống thì khỏi - Đoạn sau này tôi xin kể cho bạn đọc biết những loại thuốc, cây lá mà Thầy Hải Thượng đã dạy cho tôi, để các bạn nghiên cứu lại cho có hệ thống...

    Buổi trưa mùa hè nóng bức đến như muốn nổ tung cả người, tôi gần như phát điên, thầy Hải Thượng về, đứng ngoài sân nói: “Thuốc đây sao không biết dùng”! Thầy cúi xuống, tay nâng cành lá cây móng tay: “cả cây đem vô rửa sạch nấu nước sôi để lửa riu 15 phút, uống lúc thuốc còn ấm thử coi sao”. Tôi làm y, chỉ 15 phút sau khi uống cả người mát dịu, cơn nóng sốt bay đâu mất!

    Sau nhà tôi có cây cà ri, lá nó vò trong tay ngửi rất thơm! Cây có trái be bé màu xanh, chín đỏ mọng, vị ngòn ngọt trẻ con rất thích - có lần tôi đang đứng sau vườn ngắm trẻ đua nhau hái trái ăn. Thầy về rầy: “Nếu không sử dụng thì chặt bỏ nó đi, kẻo trẻ con ăn nhiều sẽ bị ngộ độc đấy”. Thế là tôi chặt cây bỏ, không dám để lại!

    Thầy dạy: Lá cây cỏ xước, đem rửa cho hết lông tơ đi rồi vò nát đắp lên bướu cổ, bướu sẽ tiêu dần…

    Có bệnh nhân đau cột sống lâu ngày, chích thuốc giảm đau mãi rồi hư thận, nước tiểu tự động chảy ra, người chỉ còn 37 kg, BV trả về!

    Tôi chữa trong 2 tháng thì hết hẳn mọi triệu chứng.

    Kèm theo Thầy cho uống các loại thuốc sau:

    Đầu tiên uống 7 thang thuốc có 5 vị: sen, cỏ xước, cây đau xương, râu bắp, thiên niên kiện. Uống sau 1 tuần thì đi tiểu bình thường và giảm đau...

    Uống hết 7 thang thuốc, thầy cho ăn 10 trái cật heo (3 ngày 1 trái): Đậu đen ngâm qua đêm nấu gần chín nhừ bỏ vào giữa trái cật (khi đang còn nóng), chưng cách thủy chín chấm muối mà ăn, chưng lạt không nêm nếm - thuốc này để trị thận hư!

    Sau đó thầy bảo mua 500gr táo tàu đen, cách 1 ngày mua 1 trái dưa hấu nhỏ cắt mặt khoét ruột đủ bỏ vừa 50 gr táo vào đậy nắp lại chưng cách thủy, đợi táo vừa mềm nhừ đem ra ăn cả táo lẫn ruột dưa...

    Ấy thế mà bệnh nhân hết bệnh, hai tháng sau BV xét nghiệm lại, các chức năng gan thận hoàn toàn trở lại bình thường và cột sống hết đau!

    Có một loại thuốc quý, rẻ tiền mà ít ai biết: trà khô - Thầy dạy và tôi chỉ lại cho rất nhiều người, kết quả “tuyệt vời”!

    Đau nhức, bong, sưng, trặc, do viêm khớp hoặc sang chấn, vết bầm tím do tụ máu: lấy 1 nắm trà khô bỏ vào bát, đổ nước sôi lấp xấp, đậy kín như trà uống, 5 phút sau bọc vào túm vải chườm nóng, đồng thời xoa xát nhẹ lên chỗ đau, kết quả ngay tức thì! Thầy còn dặn một điều cơ bản mà ít ai biết: trong đa số các loại đau nhức không bao giờ được bóp mạnh tay, sẽ viêm đau nhiều hơn vì lúc đó thần kinh, mạch máu và cơ bắp đang căng - Chỉ nên xoa xát hoặc day nhẹ nhàng để dẫn lưu máu huyết và thần kinh mà thôi!

    Viêm họng: Nước trà đặc, bỏ muối mằn mặn như nêm canh để trong bình thủy giữ nóng, ngậm “khò khò” trong cổ họng rồi nhổ bỏ, giảm đau rát ngay tức thì - Độ chừng 2 giờ đồng hồ ngậm súc miệng 1 lần, bao giờ hết viêm thì thôi!

    Hàn thấp, thần kinh tọa: 1 nắm cứng trà nấu nước sôi vài dạo (bỏ thêm 2 muổng canh muối). Cho một nửa vào thau, pha thêm nước nóng, ngâm 2 chân tới mắt cá! Nước phải nóng già (độ nóng làm đỏ da mà không phỏng). Nước bớt nóng châm thêm nước trà ngâm chừng 15, 20 phút, đồng thời 2 tay cào, xoa nhè nhẹ 2 bàn chân để rút hàn khí và dẫn lưu khí huyết. Chỉ 2, 3 hôm là 2 chân nhẹ nhàng, đỡ mỏi, đỡ lạnh…

    Thầy còn nhắc kỹ điều này: những người bị phong hàn, thần kinh tọa luôn luôn chân đi phải cách đất, dù nền gạch hoa cũng vậy, luôn phải mang dép trong nhà, nếu không bệnh thần kinh tọa không tài nào chữa hết được!

    Tôi có người anh kết nghĩa được ai đó tặng cho 2 chậu cây Hoàn ngọc và cây Xuân hoa (gọi chung là Hoàn ngọc lá lớn, Hoàn ngọc lá nhỏ) đem về không dám sử dụng, tôi chiết giống đem về trồng cũng để đó chẳng biết làm gì (thời gian này cây Hoàn ngọc chưa biết công dụng và chưa được phổ biến rộng rãi, chỉ dùng theo kinh nghiệm dân gian)

    Thầy Hải Thượng về bảo: Thuốc quý đây con, thầy dạy con cách sử dụng nghe!

    Viêm họng: hoàn ngọc lá nhỏ (nam thất nữ cửu) dùng lá hoặc đọt non cũng được, nhai nuốt nước để trôi chầm chậm qua cuống họng, kết quả tức thì!

    Tôi đã dùng cho nhiều người, đều khỏi. Có điều mụn lỡ trong miệng phải nhỏ nước thuốc đặc vào đúng chỗ lở thì tác dụng giảm đau liền, nhai có nước bọt tác dụng chẳng bao nhiêu! Có lần tôi bị té quỵ trầy sướt đầu gối, làm độc viêm và sưng mũ, tôi lấy lá giã đắp lên, 1 tiếng đồng hồ sau viền đỏ viêm chung quanh vết thương hạ xuống, chỉ 4, 5 hôm là khỏi hẵn! Điều kỳ diệu là vết thương ngay đầu gối thường lâu khỏi vì nằm ở chỗ co duỗi chân, nay nước lá hoàn ngọc có tính năng tạo đàn hồi, làm cho da non không bị tổn thương khi co giản…

    Bản thân tôi có nhiều kinh nghiệm điều trị bằng lá hoàn ngọc rất tuyệt vời, nhờ Thầy dạy, thầy còn dạy tôi cách chế biến và ngâm rượu 2 loại hoàn ngọc khác nhau: Lá lớn thì tẩm nước cơm vo, lá nhỏ ngâm với gừng... cách sao tẩm công phu và tác dụng điều trị thì “khỏi chê”!

    Rượu hoàn ngọc lá lớn để trị bao tử và huyết áp, các bệnh về đường ruột...

    Hoàn ngọc lá nhỏ công dụng nhiều hơn, ngoài trị các chứng như trên còn sát trùng, giảm đau, tiêu viêm...

    Rượu hoàn ngọc lá nhỏ dùng trị đau bụng cấp tính, đau bụng gió, tiêu chảy, viêm đường ruột, đại tràng, nôn mửa...xoa ngòa giảm đau, tiêu viêm, thông khớp, chữa bong, sưng, trặc, bầm tím, tụ máu...kết quả thấy chuyển ngay sau lần đầu tiên sử dụng!

    Thế nhưng, cho dù thầy giỏi đến thế nào cũng không chữa được bệnh cho tôi. Khi tôi đau dữ xin thầy về, thầy chỉ đứng nhìn buồn rầu rồi nói: “Thầy xin lỗi, thầy không chữa được bệnh cho con” rồi thầy quay lưng đi. Tôi chẳng dám trách thầy nhưng lòng tôi đau đớn lắm...

    Ngay cả các con tôi, tôi cũng không chữa được bệnh cho chúng. Khi con tôi bệnh tôi chỉ có đưa đi bác sĩ. Định mệnh gì mà nghiệt ngã đến thế này?

    Về sau, từ khi tôi học thêm về nhân điện, tôi mới chữa được bệnh cho con của mình, cũng có lúc được, lúc không (từ năm 1999)

    THƠ VĂN KHUYẾN ĐẠO

    Giờ, để thay đổi không khí, tôi xin chép lại vài bài thơ văn khuyến đạo của “Điển ông”. Những bài này là Điển cầm tay tôi chép lại, không hề sửa chữa, bôi xóa gì - Khi viết xong, ông hay đề thêm câu: “Huệ nghiêm chấp bút”.

    Thơ của Phật Bà thì đề : “Huệ Minh chấp bút”, còn Nam Hải Liên Hoa thì đề “Nam Hải Liên Hoa ứng tặng.”

    NHŨ BẠN

    Cõi đời trải có bao lăm

    Chiêm bao tỉnh mộng trăm năm thẫn thờ Công hầu khanh tướng _ ai ngờ!

    Giàu sang vinh hiển bụi bờ vong thân Người ơi, một kiếp phù vân

    Đắng cay nhục thể, muôn phần ai hay Để rồi nằm xuống trắng tay

    Cuộc cờ sinh tử ai bày thế nhân? Sông Mê chèo mãi không cùng

    Thuyền nan phận mỏng e chìm giữa khơi Chắp tay mà khấn bên trời

    Mâm cao lễ vật, cỗ đầy thức xin Xót xa hai chữ nhân tình

    Những mong đút lót phận mình an khương Tượng thờ vàng thiếp son sơn

    Lọng che sáo phủ, e còn chưa nguôi

    Trên cao trông xuống nực cười Bụt đất tượng gỗ cả đời lạy van Mẹ cha hất hủi bên đàng

    Tiếng kêu đồng loại chẳng màng tâm hao Ai thương, ai lụy, ai sầu?

    Mấy ai tỉnh mộng bên cầu oan tương Bắt tay, khuyên lấy bạn đường

    Nẻo về xa lắm sao còn phân vân...

    Huệ Nghiêm chấp bút!

    17/5/1991

    KHUYÊN AI

    Xa Luân pháp chuyển dời tứ hải Cõi trầm luân thập loại u mê Đón người mấy nẻo đi về

    Từ bi _ Phật độ hồn mê giữa đời!

    Mấy ai biết thế - gian - vạn - hữu Ai tỏ tường Tứ - đại - giai - không Làm người giữa cõi trầm luân

    Tử sinh còn động, lòng trần còn xao!

    Tâm còn động thì thân chẳng tịnh Hồn còn mê, xác ấy tỉnh sao?

    Liên hoa – Sen chốn bùn nhơ

    Mà trong trắng mấy ai ngờ, ấy duyên!

    Nầy chân lý phá Mê, khai Ngộ Thương thế nhân Phật trợ hồn mê Đoạn lìa đau khổ – hướng về

    Đạo Tràng – mai hậu còn nhờ thân sau Nẻo đường chân lý dài lâu

    Hào quang Vĩnh cửu, tỉnh mau hỡi người!

    Rằm tháng tư – chín hai Huệ Nghiêm chấp bút!

    NGỘ

    Phòng trung khởi lệ – đoạn trường sa Trọng giang hí thủy lộ thu ba

    Nguyệt lãm thi đề vi nhất dạ Vụng khởi – tâm sầu bán tự đa! Bạch lão phi vân trùng tuyết ngạn Bỉ tâm cô sự lãnh vi hòa

    Thế hạ miên trường sinh bách nạn Sử nhân mặc khải, ngộ Long Hoa!

    1/1/2001

    Huệ Nghiêm chấp bút!

    SUỐI NGUỒN HẠNH LẠC

    Nếu ở chốn Thiền môn người không tìm được cứu sinh – thì hãy can đảm rời đó mà đi, can chi phải chôn thân ép xác mình – để cho tháng ngày trôi qua ngoài cửa, luống phí một đời! Hãy mặc chiếc áo người đời đang mặc, ăn món ăn mà đời đang ăn, mang đôi dép đời đang mang – và đi con đường mà mọi người đang đi đó! Hãy cúi xuống nhiều hơn ngẩng lên và hãy dừng lại, cho dù trong lúc đang muốn tiếp tục ra đi!

    Hãy nâng lên bàn tay mình những sinh linh đang khó ở và hoạn nạn. Hãy che chở cho họ, dìu họ bước đi cùng ta – và hãy rời họ khi nào họ không cần ta nữa! Người sẽ làm được nhiều hơn hết thảy những kẻ khoác áo thiền môn để trốn tránh sự đời, sẽ cởi bỏ được gánh nặng phiền muộn ưu tư đang lưu giữ trong lòng mình khi để tâm vì người khác.

    Mỗi giọt mồ hôi, mỗi giọt lệ và thậm chí một giọt máu đổ ra vì tha nhân còn đáng giá hơn ngàn vạn câu kinh người tụng niệm miệt mài mà không hiểu hết nghĩa từ.

    Mỗi giờ khắc bỏ ra vì người khác là giờ khắc bội thu mai sau. Thượng Đế có mặt bên bạn khi bạn quên mình vì tha nhân. Và những Thiên thần chúc phúc cho bạn trên những bước đường bạn đi qua. Những đau khổ bất hạnh hiện kiếp rồi sẽ không còn – và cơ duyên bình an hạnh lạc sẽ tự tìm đến!

    Hãy đón lấy ngọn gió xa đã khởi đi từ sau những vòm lá biếc dưới cội Bồ đề mang theo tấm lòng của đấng cứu thế từ bi!

    Hãy ban phát như ta đã từng được nhận! Hãy yêu thương như ta đã từng được yêu thương – và hãy nhóm lên ngọn lửa từ ái trong lòng nhân thế vốn đã từ lâu chai mòn bởi lòng vị kỷ. Ngọn đuốc Huệ hãy còn kia, và vẫn lặng lẽ cháy sáng qua biết bao nhiêu thăng trầm cuộc thế, màu hư linh vẫn còn mang!...

    Nào! Hãy đứng lên và hãy dấn bước ra đi, bước dấn thân cũng là bước tìm về. Đừng ngồi đó mà chờ đợi! Sẽ chẳng tìm thấy đâu một góc thuyền Bát nhã bập bềnh trôi trên sóng nước luân hồi…

    Hãy tự mình nương cậy vào mình, tự mình chèo chống và dìu đỡ mọi người trên bước đường tìm về khởi thủy. Hoa Vô ưu rồi sẽ nở tự nguồn cội úa tàn, và người sẽ thấy mình như sống lại, tươi trẻ – khát khao và rạo rực, sự khởi phát của nguồn suối thanh tân, an lạc và viên mãn đời đời!!!...

    Huệ Nghiêm chấp bút!

    22/07/2005

    LÒNG YÊU THƯƠNG

    Cuộc đời quá ngắn – thế mà con người ta có dư thời gian để thù hận, trong lúc chỉ có rất ít ngày tháng để yêu thương - có phải ngọn lửa của lòng vị kỷ dễ nhen lên và bùng cháy hơn là suối nguồn tuôn chảy từ mạch sống dịu dàng?

    Con người ta bận tâm đến xem mình đã đánh mất những gì, hay bị người lấy cắp bao nhiêu – mà quên đong đếm xem ta đã mang cho nhân chúng được gì!

    Loay hoay với những toan tính, so đo người ta quên mất tháng ngày trôi qua ngoài cửa, mùa xuân đã rời đi – và buổi chiều định mệnh sắp về…

    Đến khi gối mỏi chân chồn, mắt mờ tay run – người ta mới giật mình ngoảnh lại, và vụng về làm sao với những bước đi khập khiễng ban đầu: người ta đi chùa cầu phước, cúng bái và bố thí, thi ân như chuẩn bị để mua một chiếc vé đi qua ngưỡng cửa vĩnh hằng - mau lên kẻo không còn kịp, nhanh lên kẻo ngày sắp tàn rồi!...

    Người ta dè dặt mở hầu bao, rón rén nhấc lên từng đồng xu tích cóp, nhặt nhạnh và hãnh diện để rơi vào bàn tay đang xòe ra của người hành khất, hoặc đèn nhang bạc lễ đến dâng mình ở cửa Phật từ, nơi mà cả một thuở hoa niên họ đã từng đi qua không hề ngoái lại! Rồi người ta trở về nhà, ngủ giấc ngủ ngon, mơ thấy từ những đồng xu của mình – cây Định Mệnh mọc lên xanh tươi và vươn ngọn tới bầu trời Vị Lai ngập tràn ánh sáng. Đó cũng là một hạnh phúc: hạnh phúc với những giấc mơ, phải không các bạn!?

    Còn chúng ta – mang trong người niềm ân cảm sâu xa đối với cuộc sống, với những gì mà chúng ta có được quanh mình: một tiếng chuông nhà thờ gióng giả kêu gọi, một sắc màu tươi thắm của cánh hoa vô danh ngoài ngõ, một nụ cười cảm thông hay một tiếng chim gù… Một thoáng mây trắng lãng du cuối chân trời vô định, một cốc nước mát buổi trưa hè hay một chút hương xa…

    Một cánh bướm chập chờn bên cửa, hay một bờ cỏ xanh êm dịu dưới bàn chân… Thãy thãy đều như muốn nói lên rằng: chúng ta đang hạnh phúc biết bao với những gì mà thiên nhiên hào phóng tạo tác và ban tặng – thế thì… sao chẳng mở rộng lòng mình, để thấy gần gũi và yêu mến hơn vạn vật chung quanh – để có thể nâng lên từ trong lòng tay một cành hoa gãy dập đêm qua vì mưa bão, vuốt ve một đứa trẻ xa lạ kêu khóc bên hè, có thể dìu đi một người vừa té ngã, hay kề vai chia bớt một chút gánh nặng của kẻ lạ qua đường - có thể cho người đang đói một vốc cơm nguội, cho kẻ khát một ngụm nước trong, cho người rách rưới một chiếc áo, cho kẻ yếm thế một lời động viên, cho kẻ đang buồn một câu an ủi… Những điều đó hoàn toàn có thể, phải không các bạn?!

    Và… hãy thương yêu nhau đi, để rồi mốt mai định mệnh có làm xa nhau người ta không phải ân hận rằng đã không trao tặng cho nhau những gì mình có thể – Bởi vì “cho là nhận” đó mà!...

    LIÊU TRAI (4)

    Vào đầu tháng 7/1991, gần sạp báo của tôi có 1 tai nạn xe cộ: hai người thanh niên say rượu chạy xe máy đâm vào 1 chiếc xe ngựa chở cỏ, càng xe bịt đồng đâm lủng bụng và gảy nằm luôn trong đó. Xe cấp cứu đưa tới bệnh viện - Ngay lúc đó tôi cầu xin Ơn trên cứu cho người bị nạn...

    Nửa đêm đang lúc “lơ mơ” sắp ngủ, tôi thấy mình xuất hồn vào bệnh viện. Bước vô tiền sảnh tôi thấy tấm bảng ghi tên BS trực ca ngày, đêm, và tên y tá, hộ lý đàng hoàng bằng phấn trắng - “Điển ông” đưa tôi vào phòng cấp cứu, tới bên giường giở tấm ra phủ tôi thấy xác người Nam đó đã chết rồi! Tôi thét lên một tiếng, tông cửa chạy mất!

    Quả nhiên, ngày hôm sau có tin người thanh niên bị nạn đã chết vì vỡ lá lách.

    Sau đó 1 tháng (vào tháng 7 AL) mưa dầm dề cả ngày đêm. Độ 6, 7 giờ tối tôi đang ngồi trong sạp báo nhìn ra, sực thấy hồn cậu thanh niên chết ngồi gục đầu, đúng ngay cửa tiệm may, nơi bị xe đụng chết. Lúc đó, tôi mới tin lời truyền miệng của ông bà xưa: Chết vì tai nạn xe cộ cũng như chết dưới nước, ở đâu thành cô hồn ở đó, không được về nhà, chờ cho đến khi bắt được người thế mạng mới được rời đi!

    Đêm đó, tôi làm bài thơ “Điệu buồn tháng bảy mưa ngâu”, xin chép lại cho bạn đọc nhé!

    ĐIỆU BUỒN THÁNG BẢY MƯA NGÂU

    Đèn vàng nhạt nhòa mái phố Mưa qua hiu hắt từng cơn Bóng ngã gục đầu trong gió Về đâu – lạnh lẽo hương hồn?

    Cửa khép – nhà xưa bỗng lạ Bạn quen còn có ai đâu Còn chăng nấm mồ vô chủ

    Quạnh hiu ngọn cỏ mai sầu!

    Trời cao động lòng trắc ẩn Mưa buồn, mưa mãi từng cơn Làm sao giúp người lận đận Có ai mở cửa Thiên đường?

    Địa ngục cũng không, Người ạ! Số chưa phải số thì thôi

    Lang thang cuối trời quạnh quẽ Rồi về chốn cũ đợi ngày...

    Nơi chết xin làm nơi ở Đây thôi – còn biết đi đâu

    Gục đầu đếm ngày giông bão Điệu buồn tháng bảy mưa ngâu!

    Tỉnh mộng người ơi, kẻo trễ Công hầu, Khanh tướng mà chi Nằm xuống – mộ phần vô chủ Một nắm cỏ khâu xanh rì!

    Chi bằng tu nhân tích đức Nhờ đèn Từ rọi hồn mê Tháng bảy, vài hàng cảm tác Tri âm – xin bắt tay thề!

    Diệu Thiện

    * Có một người phụ nữ độ 25, 27 tuổi – nhà ở tận Củ Chi, có căn cậu Trạng 6 tuổi về theo! Thỉnh thoảng lại đi bộ từ nhà xuống chợ Hiệp Thành, lang thang khắp nơi, phán bảo đủ điều tùy hứng! Có lần bà D kế bên rủ tôi: “Trạng đang về bên nhà chị Hồng – người đến xem đông lắm, chúng ta sang đó coi đi”. Tôi tò mò cũng đi theo – lách qua đám đông, tôi vào ngồi ở 1 góc phản gỗ ở phòng khách…

    Lúc đó xác trạng đang khấn khứa ở phòng khách, bổng nhiên quay lại nhìn tôi và nói: “Có căn sao không về nói chuyện chơi” – Tôi cười bảo: “Biết gì đâu mà nói”: “Không nói ta làm cho nói” - Đoạn đưa tay ngắt 1 bông hoa vạn thọ đang chưng trên bàn thờ nhúng vào ly nước cúng vẩy vào mặt tôi, lầm rầm xin gì đó! Ông nói trong đầu “Vào chơi nhé!” Tôi “ừ” xong leo tuốt lên giữa bộ ván ngồi xếp bằng trông oai lắm...

    Xác Trạng ngẩn nhìn một lát, rồi chắp tay vái lia lịa: “Ông tha cho con, tha cho con”. Xong leo lên ván nằm vùi trong lòng tôi, nói giọng nũng nịu: “Ông tha cho con, đừng bắt con về tội lắm. Con chỉ ham chơi chút xíu con về hà! Ông ứng hỏi, xác nói: “Con 6 tuổi, con trốn đi chơi 2 năm rồi” – Tự nhiên cũng vui chuyện, ông không rầy rà gì xác Trạng, quay qua xem số cho hết người này đến người khác, cuối cùng không phải Trạng nói mà là ông nói...

    Tôi chỉ nhớ 1 việc mà sau này ứng đúng như vậy! Ông chỉ chị Hồng nói: “Ráng mà ăn chay niệm Phật cầu xin đi! Thằng con trai độc nhất của cô hơn 1 năm nữa thì chết đó”

    Mỗi lần “Điển” về phán bảo những điều như vậy, tôi thường rất lo sợ, sợ người ta mắng mình ác miệng rủa họ - Vậy mà đúng! Hơn 1 năm sau một buổi chiều nọ tôi đang ngồi trong quầy báo, kế bên có 1 thùng thư của bưu điện. Một cô gái bỏ lá thư bào thùng rồi đi, lá thư còn thừa ra 1 góc! Bé Tín (con chị Hồng) lúc đó chừng 12, 13 tuổi đi qua đường, vừa đi vừa ngoái lại nhìn và cười. Một chiếc xe máy phóng nhanh trờ tới đụng “rầm” một tiếng. Thằng bé lăn ra đất dãy lên đành đạch như cá bị đập đầu...

    Một tháng rưỡi sau cậu bé sống, đưa về! Bà ngoại (Mẹ chị Hồng) kể: “Đưa xuống BV Trưng Vương cấp cứu một hồi nó tắt thở, BS rút ống thở ra, tôi không chịu vác lên vai kêu xe chạy qua BV Chợ Rẫy, mới cứu được nó”. Vậy là phúc nhà vẫn còn... Thằng bé bị vỡ mất một mảnh xương trán, đến giờ hãy còn mềm phập phều, về sau tâm thần có hơi bất ổn một chút! Bà ngoại và Mẹ cậu bé từ đó hay ăn chay và thường xuyên đi chùa để tạ ơn!

    Có điều lạ ở tôi là các phần Điển không bao giờ tự động về nhập xác, chỉ khi nào tôi đồng ý hoặc cầu xin thôi! Nếu Điển tự về mà tôi không muốn, sẽ trụ lại trong đầu xoay tôi chóng mặt một hồi rồi tan chứ không ép buộc - Và khi Điển nhập vào rất nhẹ nhàng, không bị ợ ngáp, múa may quay cuồng hoặc cướp cái thần của xác để ứng về trong xác mê! Với nhiều người khác khi Điển về hành nhiều lắm, và khi Điển xuất ra xác ngã vật ra sau bất tỉnh độ chừng 1 phút, sau khi tỉnh lại thì rất mệt...

    Phần tôi, khi Điển về cả người nóng ran lên, phần da ở đầu và cổ đỏ rần, chỉ nghe choáng váng một chút thôi, khi hồn xuất ra cũng nhẹ nhàng và hoàn toàn bình thường như không có gì!

    Những lúc như vậy tôi thấy linh hồn mình ngồi ra một góc, Điển phán bảo gì hồn nghe cả, sau kể lại chẳng sai 1 chi tiết nào! PB bảo: “Căn nhà Phật là căn tỉnh nên khi nhập căn thì tỉnh táo vậy đó”.

    Và thêm một điều lạ nữa là trong tôi có thể nhập về hai ba phần Điển cùng một lúc, ngay cả linh hồn tôi cũng có mặt giữ quyền tra xét, giải thích, cầu cứu, quyết định...

    Linh hồn tôi ngồi nghe tất cả, thỉnh thoảng xen vào góp ý kiến hoặc cầu xin Ơn Trên ứng cứu cho hồn ai đó...y hệt như người đóng 2, 3 vai trong một bộ phim lồng tiếng: lúc thì oai nghi, khi sợ sệt cầu xin, khi bướng bỉnh lúc lại dọa nạt, van cầu...Giọng thay đổi tùy theo phần nhập, cho đến khi giải quyết xong mọi việc mới thôi!

    Trong lúc Điển về hành xử, hồn và xác của tôi luôn luôn là người chủ trì, Điển trên chỉ làm theo lời yêu cầu của tôi và chính tôi phải là người động não, “tùy cơ ứng biến” y hệt như vị Quan tra án ở Công Đường. Điển trên chỉ là “phương tiện trợ cứu” mà thôi!

    Tôi thường nói vui với mọi người: “Tôi chỉ làm Quan tắt, tự điều tra, phá án, ra quyết định rồi trộm con dấu đóng cái “cụp” là xong, chứ có được học tập, rèn luyện bao giờ đâu!” Phải tự mình suy nghĩ tìm cách rồi linh động mà hành xử, những lúc ấy, đầu tôi căng lên như muốn nổ tung, phải khéo léo và cẩn trọng, không thể chuyên quyền, áp đặt hay dọa nạt, lợi dụng Phép Ngôi cao mà khống chế Aâm phần. Luôn phải giữ đúng lương tâm và đường lối của nhà Phật: “Từ Bi Hỉ Xả”, độ lượng khoan dung và từ ái, phải xử cho công bằng và hợp lý, sao cho muôn người vạn loại phải “tâm phục, khẩu phục”! Và tôi luôn làm được điều ấy trong suốt 22 năm qua, chưa bị khiển trách lần nào...

    Để rồi sau những lần “phá án” cam go, tôi như quả bóng bị xì hơi, lơ ngơ lẩn ngẩn y hệt “thằng khờ xuống chợ” vậy!

    Và tôi phải cảm ơn sự “khảo đảo” trong ngần ấy năm của PB, để tôi trở thành người “giỏi ứng biến" như bây giờ...

    Suốt từ những ngày đầu tiên đến nay, “Điển ông” không ra mặt hành xử, nhưng tôi vẫn biết Ông ở bên tôi và lặng lẽ trợ cứu khi tôi lâm nạn. Những quyết định ñoät xuaát cuûa oâng laém luùc laøm toâi phaùt ñieân leân ñöôïc, nhöng chả lẻ cãi lại trước mặt mọi người sao! Ông rộng lượng và bao dung, thấy ai cũng muốn cứu, nhưng “cứu người thì ông cứu, bị đòn tôi lại bị” mới kỳ chứ! Khi bị “hành trả nghiệp” đau đớn quá tôi khóc lóc và trách cứ đổ tội cho ông và kiếm chuyện làm nư đủ kiểu...Những lúc như vậy ông im lặng chịu trận, không giải thích gì cả, tôi lằng nhằng quá thì ông biến mất, bao giờ tôi hết kiếm chuyện ông lại trở về...

    Có điều bất bằng nữa là ông không bao giờ “vẽ đường chỉ lối cho tôi”, và khi tôi đau ông chỉ im lặng! Tôi có năn nỉ ông góp ý về việc gì đó ông lại bảo: “Tùy em, em làm sao cũng được”

    Ông hiền lắm, suốt 22 năm nay ông chưa lần nào mắng mỏ hay nặng giọng với tôi, mặc dù lúc đau bệnh tôi “nghịch thường hết biết” có lẽ ông thương tôi phải chịu đòn oan...

    Nhưng điều đáng sợ nhất lại là “đòn cân não”: Điển thường chuyển vào bộ não của tôi những lời thô thiển, xúc phạm tôi vô cớ, thậm chí bắt chước tiếng chưởi thề, nói tục của ai đó - giọng nói của người lạ như vọng về từ đâu đó nơi mù mù tâm thức...Những lúc như vậy tôi phát điên lên, tưởng có thể đập đầu vào tường cho vỡ tan đi, để không còn nghe tiếng nói vọng từ trong não mà lại nghe chừng như ở một cõi nào rất xa vọng tới. Ngày xưa thỉnh thoảng có đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi còn nhớ có một cụm từ diễn tả được trạng thái này: “Truyền âm nhập mật”!

    Sau những lần như vậy, thần trí tôi gần như muốn điên lên, rất lâu sau, 10 bữa nửa tháng, vẫn chưa trở lại bình thường - Bây giờ tôi mới biết đòn “tra tấn tinh thần” đáng sợ đến thế nào!

    Qua lúc đó, ông khuyên tôi: “Khi nào em nghe từ miệng anh nói, em muốn xử sao cũng được! Điển đưa vào thần trí của em để thử thách em, xem như hành trình tu tập vậy. Em còn để tâm nghe và giận thì còn bị dài dài. Điển rèn luyện chữ “nhẫn” và đức “xả” cho em đó thôi!

    Trời đất, tôi vẫn là “người trần mắt thịt” cơ mà! Có câu châm ngôn của ai đó: “Người ta nhổ vào mặt kẻ hèn nhát, hắn nói: trời mưa”, tôi mà là kẻ nhu nhược, yếu hèn sao!? Thế là tôi “quậy tới bến”…

    Càng quậy càng bị đòn đau, càng đau càng quậy, lại đau! Đến lúc tận cùng của sự chịu đựng, tôi khóc thê thảm một lần, khóc đến lạnh ngắt tay chân, khóc tưởng đứt từng đoạn ruột - Thế là sáng hôm sau... hết bị đòn!

    Mọi cái đau đớn biến đi đâu mất, cứ như một trò đùa. Khi nó đã qua rồi, tôi không tài nào có thể tưởng tượng ra cơn đau ấy nặng tới chừng nào. Cứ như người ngủ mê mơ một cơn mơ dử, tỉnh ra thấy mình nằm trên chăn êm nệm ấm và giấc mơ không còn nữa...

    Có lần tôi vừa đau vừa quậy trong nửa tháng trời như vậy. Đến một đêm đang nằm mê mê trên giường nghe tiếng ông nói, mở bừng mắt ra, tôi thấy ông đang đứng chắp tay cầu xin tất cả các cõi Trời, Phật hỗ trợ cho ông hiện nguyên hình Tất Đạt Đa Hoàng Tử để tôi tin ông. Thế là tôi lại thấy các vệt sáng nhoáng nhoàng bủa xuống trên đỉnh đầu ông, sau đó hiện ra hình ảnh Tất Đạt Đa Hoàng Tử (Chỉ thấy nửa người trên) đẹp lộng lẫy, toàn thân như dát đầy vàng! Một dáng thanh niên tuổi chừng hăm ba, hăm bốn tuổi, đội chiếc mũ có ngù cao toàn bằng vàng. Hoàng Tử cười với tôi, đưa bàn tay lên chào rồi biến mất, tôi còn kịp thấy ngang cổ tay đeo 1 băng tay bằng vàng và bàn tay với những ngón thon mảnh đẹp như tay người con gái...thế là tôi hết “kiếm chuyện”!

    Có lần cũng qua một thời gian bị đòn, và tôi đang ra sức oán thán, đổ tội cho ông. Đêm đó tôi vừa lơ mơ ngủ, chợt thấy một cảnh tượng rất lạ: có 1 chiếc bè lớn, trên đó là tất cả người, vật, nhà cửa...PB mặc áo lụa trắng, đang cố sức chống cây sào đẩy chiếc bè lớn qua sông. Dưới dòng sông ấy nước đen kịt và đủ thứ rác rưởi dơ bẩn trôi lềnh bềnh... Chỉ thấy hình ảnh đó thoáng qua chừng 1, 2 phút rồi biến mất. Tôi lại ngồi dậy khóc và xin lỗi PB với Điển ông và sáng ra...hết bị đòn!

    Đến khi nào thấy tôi đi đến tận cùng của sự chịu đựng và tuyệt vọng, Bề trên lại “xả hành”! Coi như qua một cuộc tra tấn dài ngày, được cho nghỉ dưỡng sức vài hôm, để rồi lại bắt đầu một trận đòn mới...

    Thời gian càng lâu, tôi càng tiến bộ nhiều hơn - mọi việc đều xử nhanh chóng, mau lẹ! Chẳng bù với 10 năm đầu, tôi còn bị những phần âm giỏi tà phép đánh cho “xiểng liểng”, đầu váng mắt hoa, cảm giác lúc ấy y như người bị trúng gió, bước đi chỉ chực ngã té! Mặc dù lúc đó sợ đến mất hồn nhưng vốn “lì lợm” tôi chẳng chịu thua bao giờ. Định thần lại tôi cầu xin các thế lực Trên về cứu và tôi lại thắng! Những phần âm hung hãn Điển về bắt đưa đi mất, chẳng còn hại người được nữa...

    Đầu tiên, ơn Trên để cho tôi tự hành xử, đến khi nào tôi thua, tôi cầu cứu thì Trên mới ra tay ứng cứu! Những lúc như vậy tôi ức lắm, trách cứ ông đủ điều, và ông cũng chỉ một chiêu duy nhất: “Im lặng là thượng sách”

    Có lúc bị đòn nhiều quá, tôi khóc và trách PB: “Người nắm đầu con nhấn xuống bùn, đến khi nó ngộp thở sắp chết thì kéo lên cho thở vài hơi rồi lại nhấn tiếp, tại sao vậy chứ? Con có tội gì, Người nói đi”. Đương nhiên là chẳng ai thèm trả lời tôi...

    PB gánh thay cho Ông tất cả. Hễ tôi trách cứ ông là PB về nhận hết tội cho mình: “Ta làm đấy, Ông không can dự gì”. Bởi PB biết tôi rất sợ PB, Người hay dùng uy lực của mình xử ép tôi, càng cãi lại càng bị đòn thêm. Tôi ức lắm mà không dám nói gì!

    * Có lần bị đòn nặng lắm, tôi thắp nhang xin cúng kiếu xong dẹp hết bàn thờ, tìm đến nhà Thờ xin rửa tội theo đạo Thiên Chúa. (Trong vòng 22 năm tôi đã 4 lần dẹp bàn thờ y như vậy)

    May là hôm đó Chị bạn hứa dẫn tôi đi bận việc, nếu không, có lẽ tôi đã mang toàn bộ gánh nặng nghiệp chướng này chuyển vào nhà Thờ mất rồi!

    Trưa hôm sau, độ 10 giờ sáng, đang đứng bán báo trong quầy chợt tôi thấy một chiếc xe mui trần chạy ngang qua, trên xe chở một tượng PB đẹp lộng lẫy, cao chừng 1m50. Chiếc xe như đang diễu hành qua lễ đài, chạy “xình xình” thực chậm qua khỏi sạp báo, tôi bước ra đứng nhìn thấy người phụ xế leo xuống, hướng dẫn cho chiếc xe đánh vòng quay lại, chạy qua sạp báo 1 lần nữa, xong đi xa dần rồi mất hút...

    Có điều lạ là quãng đường trước cửa sạp báo không có ngã ba hay ngã tư, cũng không thấy người phụ xế hỏi đường hay tìm địa chỉ gì. Chiếc xe đến rồi đi cứ như trong một giấc mơ...

    Lại một lần nữa (trong hoàn cảnh tương tự) tôi chán chường ngồi lan man lật xốc mấy quyển báo đặc san. Ngay chính giữa quyển Đặc san Sân khấu có in hình Phật Thích Ca Mâu Ni thật lớn chiếm cả 2 trang báo - Cứ mỗi lần như vậy lại dường như có 1 tia chớp cảnh tỉnh trong đầu, tôi quay vào thắp hương xin lỗi PB và Ông!

    Người chẳng buồn trách tôi đâu, tôi biết - Bởi liệu có mấy kẻ trên đời này chịu làm việc trong hoàn cảnh tương tự như tôi?! Cho dầu đau bệnh đến mấy, tôi vẫn không từ chối bất cứ ai tìm đến nhờ mình giúp (cho dầu là việc gì đi nữa, tôi không xử lý được trọn vẹn thì cũng một phần) Tôi làm mọi việc chỉ vì lòng thương người, chứ không vì lợi lộc hay danh tiếng! Tôi chỉ như là một hạt cát nhỏ nhoi vô danh ở một góc đời quạnh quẽ, không tiền bạc địa vị, không hạnh phúc cũng chẳng được yêu thương... Một người đàn bà tật bệnh liên miên, thiếu thốn nợ nần như cơm bữa, cuộc sống gần như “tứ cố vô thân”, không có cả tình thương yêu của người thân ruột thịt...

    Người không thương tôi nhưng tôi lại yêu thương tha thiết mọi người...tôi yêu từ con người đến loài vật, 1 cánh hoa tàn cũng động mối thương tâm, cây cỏ dại nhổ bỏ đi

    lòng cũng xót. Đang đi thấy con cuốn chiếu, chú ốc sên bò ngang đường cũng dừng xe lại gắp bỏ vô lề “kẻo xe nghiến chết nó tội lắm”!

    Thấy người ỷ mạnh hiếp yếu, tôi đau nghẹn như chính mình bị xử ép vậy. Tôi không bao giờ xem các trận đấu Bò hay đấu quyền anh, không ưa coi các phim bạo lực, cũng không thích xem các trận thi đấu, bởi vì ở đó có giọt nước mắt của người thua cuộc, có nỗi đau...

    Tôi hay bị mang tiếng là “nhiều chuyện”, hoặc “ách giữa đàng lại mang vào cổ” và thỉnh thoảng cũng bị (nói vui theo kiểu dân gian) “đá giò lái” hoặc là “gậy ông đập lưng ông”. Mỗi đợt như vậy tôi buồn đến bỏ ăn, bỏ ngủ...sau đó vẫn chứng nào tật nấy, thấy chuyện bức xúc lại nhào vô!

    NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (2)

    Kể từ ngày lấy ông Hinh làm chồng, tôi thường hay có những giấc mơ lạ (hay còn gọi là “Mộng ứng”). Đa số đều khó khăn và nặng nề, về sau ngẫm lại đúng như hoàn cảnh thực. Tôi kể bạn đọc nghe nhé!

    Tôi mơ thấy mình mặc bộ đồ lụa trắng rất đẹp cùng 2 bé Tí, Ti được ông Hinh chở bằng xe đạp (loại xe đạp thồ để chở nặng đi đường núi) đi từ cuối dốc lên căn nhà nằm cao ngất trên đỉnh dốc. Con đường vừa mưa xong trơn trợt, đầy dấu bánh xe dọc ngang - Chiếc xe đạp chở 3 mẹ con nhích từng bước nặng nề… Ông Hinh nói đùa: “Yên tâm đi, dân này chuyên đạp xe thồ mà!”. Rồi cũng lên tới dốc, vào 1 căn nhà trống, lúc đó 2 đứa nhỏ than đói bụng, ông H đi 1 vòng trở lại mang mấy trái khổ qua bảo: “Không có gì, ăn đỡ mấy trái này đi!”. Bé Tí vơ lấy, cắn 1 miếng rồi nhăn mặt vứt ra sân “Đắng nghét”. Tôi chỉ vào vách ngăn phòng khách nói: “Ngày xưa Ba xây nhà cho em có nói để của ở trong bức tường này. Ba còn dặn sau này phải tìm cây đèn nào sáng thực là sáng soi vào mới thấy được mà lấy của ra”. Không có đèn, ông H lấy cây sắt to đập mãi mà không vỡ được tường. Có thế, tôi tỉnh dậy - Quả đúng là lấy nhau khổ nạn trùng trùng, giống như người đói phải ăn trái khổ qua vậy!

    Một lần vía tôi mơ thấy mình đang có thai, đói bụng mà không có gì để ăn! Tôi và ông H leo lên cây ổi hái trái ăn cho đỡ đói. Cây ổi chỉ có toàn trái non, đắng nghét! Ông H nhai, nhăn mặt rồi nhả bỏ! Còn tôi không ăn, nghĩ “phải trèo xuống đi kiếm gì ăn, để con mình trong bụng nó đói!”. Sực nhìn xuống, thấy gốc cây bị kẽm gai rào chắn tứ phía tự lúc nào! Tôi bươn bả leo xuống, gai quào toạc cả tay chân...

    Tôi mơ thấy nhà mình ở cuối 1 con đường đê nhỏ hẹp. Một buổi chiều nọ tôi nhặt được 1 sợi dây chuyền thật to (của ai không biết). Nhìn tứ bề đồng không mông quạnh, tôi đem vào nhà cất định chờ mai ai tới hỏi tìm sẽ trả lại cho họ. Chẳng hiểu sao lại leo lên giường gát sợi dây chuyền lên bloc lịch treo tường rồi đi ngủ!

    Sáng ngày hôm sau, cô gái giàu có kêu căng con ông phú hộ đầu làng dẫn 1 toán lính tới nhà tôi sục tìm. Mắng tôi: “Ở đây chỉ có nhà con nhỏ này, nó lấy chứ không ai! Tao mà tìm ra tao còng đầu mày đưa lên quận nhốt cho coi”.

    Tôi ức quá không thèm lên tiếng, chúng sục sạo một hồi rồi bỏ đi mất! Tôi đi chân không, chạy riết lên Dinh Quan Huyện, vào công đường, thấy Ông đang ngồi lim dim, tôi la lên: “Anh Hai, lính nó lục soát nhà mình anh có biết hay không?” Anh nhẩn nha hỏi: “Có thấy gì không?” Tôi nói không, anh lại bảo “Thì thôi, để tâm làm chi!” Tôi ức quá tấm tức khóc, anh lại dỗ: “Đâu phải làm Quan rồi muốn sao cũng được đâu em. Cái gì cũng phải chiếu theo luật mà làm thôi”…

    Lần nữa tôi mơ thấy bị 3 người điên đuổi đánh, chạy vòng vòng - ba tên lực lưỡng cầm roi cứ tìm tôi mà đánh, mọi người đứng xem chật đường, không ai bênh vực hay nói năng gì - Sợ chúng phá tan tủ kính, trong quầy, tôi chạy vô, bị đánh đau quá chạy lộn ra đằng sau, vía thấy nhào đại xuống hầm nước sau nhà. Nước màu đất sét dơ bẩn, đầy rác rưởi, quần áo một ôm trên tay rơi vãi lung tung...

    Ba tên điên nháo nhác đi tìm ngoài đường - bỗng nhiên có 1 người phụ nữ nhảy xuống theo, đưa cho tôi chiếc nón lá, xong vắt quần áo bỏ vào trong nón rồi ra dấu cho tôi núp sau lưng, leo lên mà chạy trốn đi chỗ khác!

    Lại thấy một Ông lớn đeo kính gọng vàng, cặp táp, giày Tây, áo veston, chừng như đang đi thị sát! Ông tới trước mặt, nhìn tôi mà chừng như không thấy, quay ra vẫy tay ra dấu nói: “Không có ở đây đâu, sang bên kia tìm đi!”. Thế là ba kẻ điên xách roi bỏ đi mất...

    Tỉnh dậy, tôi thấy mình khóc đến sưng cả mắt, cầu xin PB về hỏi: “Mấy người điên đó là ai! Tại sao họ đánh con dữ vậy?” PB bảo: “Người ta nói “họa vô đơn chí” là vậy đó con”. “Người phụ nữ và ông lớn là Phật Bà với Phật Ông phải không? Sao chẳng ai cứu con hết vậy?” PB lại bảo: “Con phải tự cứu mình, chúng ta chỉ hỗ trợ chút xíu thôi! Con phải tự chèo chống mà vượt qua sóng gió cuộc đời, con à!”. Vậy đó, mọi người khóc kêu thì Mẹ cứu, còn tôi thì Mẹ bảo phải tự chèo chống, nghĩ đáng buồn chưa?!

    * Cuối năm 1994, vào một đêm mùa đông lạnh lẽo, tôi mơ thấy một giấc mơ lạ: “Thấy mình đang đi vào 1 khu rừng nọ, đến 1 ngôi Đền để vay tiền dùm bà H (đã kể vào những đoạn trước). Chờ mãi đến lúc trong Đền có 1cô gái mặc bộ đồ màu trắng đi ra, cô ấy nói với tôi: “Bà ấy hết chuẩn cho mượn rồi, chị về đi, lo cho thân chị, nợ nần lung tung kia kìa!”. Nói vừa xong, thoạt thấy trong đền đi ra một ông lão phơ phơ tóc bạc mặc 1 bộ đồ trắng cũng giống cô gái kia!

    Ông cụ chân đi lửng thửng, cô gái lặng lẽ theo hầu đàng sau. Tôi cũng đi bên cạnh, lòng buồn rười rượi - Ông cụ nhìn tôi một thoáng rồi nói: “Con à, của Bề trên cho của một sinh mười, Bề trên lấy lại của mười không còn được một”.

    Tự dưng tôi reo lên: “A, con biết rồi. Hèn nào trước đây 3 năm hai ông bà ấy nghèo lắm. Nhờ ông cho mượn tiền, họ mở 1 xưởng cưa, mướn 30 người thợ, còn sắm được 2 chiếc xe máy xịn nữa! Đợt này làm ăn thua lỗ, nợ nần chồng chất - Ông mà không cho mượn nữa họ bán hết của cải chưa trả hết nợ, còn lo bị ở tù nữa à”...

    Ông cụ đi bộ dài theo con đường nhỏ bên hông ngôi đền, cô gái vẫn kính cẩn theo hầu phía sau. Dưới chân tôi lá mục rụng đầy, lẫn trong xác lá có đầy những vàng nhẫn, vòng xuyến bằng vàng ròng sáng lấp lóa... Trong tôi dâng lên lòng tham: “Chỉ cần 2 khâu như thế này là đủ cho mình trả nợ rồi!” Lại đấu tranh tư tưởng: “Không được, đây không phải là của mình, lấy là ăn cắp”. Ông cụ mỉm cười, theo dõi diễn biến trên mặt tôi, đoạn cúi xuống nhặt 1 chiếc nhẫn đặt vào lòng tay tôi, nói: “Ông cho con, để ăn dần. Mai mốt ông cho tiền trả nợ. Nhớ lời ông dặn nghe không!” - Tôi lặp lại như con vẹt rồi giật mình tỉnh giấc: “Của Bề trên cho, của một sinh mười. Bề trên lấy

    lại, của mười không còn được một”...

    * Năm 1994, khi tôi cấn thai đứa thứ ba 1 tháng rưởi. PB về bảo tôi: “Con làm việc cho ta 10 năm, nay Ta trả công cho con. Là đứa con gái trong bụng của con đó. Con nói trước với chồng con kẽo nó nghi ngờ: chồng con đen như cột nhà cháy, con thì nước da ngăm ngăm - Nhưng con gái của con da trắng, má đỏ, môi hồng, nó là Thánh Nữ, pháp hiệu là Minh Tâm - 13 tuổi rưởi, con nhớ nghe! Nó sẽ ra đời ngày hai mươi tám tết, con lo chuẩn bị sẵn sàng đi. Mọi đứa trẻ khác khi lọt lòng mẹ thì hồn mới nhập xác, còn con bé nhập hồn ngay trong bào thai. Trong suốt thời gian đó, nếu hai vợ chồng con có tư tưởng không tốt thì nó không ra đời.

    Ta dặn trước, nhớ cho kỹ! Đến khi đủ tuổi học lớp 1 mới cho nó vào trường, còn bé mà đưa đi xa mẹ linh căn nó sợ là nó bệnh. Đủ 12 tuổi mới tin nó là con của con nghe chưa!”...

    Sung sướng biết bao nhiêu mà vẫn bán tín bán nghi. Tôi vốn có 2 đứa con trai, giờ có con gái thì rõ là điều tuyệt vời nhất!

    Để được “điều tuyệt vời” ấy tôi phải đánh đổi một cách đáng sợ - Từ lúc có mang đến khi sinh con tôi không ăn được gì lạ ngoài cơm trắng, bánh tráng nướng hoặc nhúng chấm nước mắm với canh rau! Tất cả các loại thịt động vật không đưa vô miệng được...

    Vốn tôi đã gầy ốm (43 kg) mang thai tới khi sinh cũng có đúng 43 kg! Bệnh viện thì khám hàng tháng BS cứ chau mày, đủ thứ thuốc bổ dưỡng vẫn chẳng lên cân tí


    nào!



    Cái thai hành mới ghê chứ - mỗi đêm tôi nằm đau


    nhức rã rời, ông H phải day phần lưng mãi mới nằm xuống, ngồi dậy được!

    PB bảo cho tôi nghỉ chữa bệnh một thời gian để lấy sức cho con, thực ra là nghỉ để lấy sức chịu đòn: Hai bàn tay tôi mười ngón sưng cứng cả 10, đau nhức liên tục, ban ngày còn đỡ, đêm tới nhức cả đêm, không để vào đâu mà chịu được! Cả 2 tay đều mất cảm giác, đụng đâu rơi vở đó, rửa chén bát không còn biết sạch hay dơ; chiên xào bị phỏng hoài không biết đau đớn là gì…

    Có thai độ 3 tháng, một đêm tôi đang nằm trên giường, thấy PB đưa về 1 bé gái độ 12, 13 tuổi, mặc áo đầm bằng voan trắng, chân cũng đi hài trắng! Con bé xinh xắn, tóc cắt ngang tai, da trắng, má đỏ môi hồng. PB bảo: “Con bé Minh Tâm đây! Mẹ con đó, chào mẹ đi”. Bé Minh Tâm nói lí nhí gì đó trong miệng, điệu còn xa lạ lắm…

    Tôi ngồi dậy ôm bé vào lòng, hỏi: “Con thích ăn gì, mai mẹ mua cho con ăn?” Bé nói: “Con thích ăn nhãn tiêu”, 10 p sau PB đưa bé đi!

    Từ đó, thỉnh thoảng PB lại đưa bé về để an ủi tôi, tôi nhìn con mà có thêm sức chịu đựng cho mình, chứ thực lòng tôi chỉ muốn quyên sinh mà thôi - sự đau đớn cùng cực không có bút mực nào tả xiết được. Có đêm trong cơn mê thiếp rã rời, tôi nghe như có gì âm ấm ở bàn tay. Mở mắt ra thấy bé MT đang quỳ dưới đất, gục đầu khóc, nước mắt từng giọt, từng giọt rơi ấm trên tay tôi...


    Lần nữa, PB về thăm tôi, đang còn đứng đó, đột nhiên bé MT từ ngoài chạy vào quỳ xuống đất hôn gấu áo Mẹ Quán Âm vừa khóc vừa van: “PB ơi tha cho mẹ con đi, tha cho mẹ con để con chịu đòn thế cho mẹ”. PB nạt: “Ai cho phép mi đến đây, biến mau”. Thế là con bé biến mất...

    Những lúc như thế này, tôi cứ nghĩ mãi trong đầu mình “Bề trên, những vị mà tôi từng tiếp xúc lâu nay, phải chăng là quỷ ác đội lốt Thần Tiên, Phật để đày đọa mình?! Nhưng chỉ có tôi là chịu đòn, chịu sự tàn nhẫn nghiệt ngã này, còn tha nhân thì được cứu độ kia mà! Từ bàn tay họ đã từng chiết giảm đớn đau tật bệnh và cứu sống bao nhiêu người, chẳng lẽ tôi chỉ là kẻ tội đồ bị lưu đày. Nếu thế thì tại sao tôi phải làm việc cơ chứ?

    Tôi lặng lẽ nhìn, mường tượng thấy đàng sau khuôn mặt đẹp lộng lẫy, sau tấm áo lụa sang trọng kia là một linh hồn ác đang chuẩn bị xé tôi ra hàng trăm mảnh và tôi bắt rùng mình!

    PB thì như một robot có trái tim bằng thép, chẳng hề động tâm đến những nỗi đau đớn mà tôi đang chịu. Chẳng biểu lộ một chút thương tâm, đôi mắt đẹp chẳng hề chao đảo, giọng nói vẫn quyền uy, hình dáng oai nghi, đẹp đẽ và sang trọng. Tay đeo vòng ngọc màu xanh trong vắt tưởng chừng soi thấy mình trong ấy! Bàn tay thật đẹp với những ngón mảnh dẽ chuốt nhọn kia có thể chẹn cổ mình sao? Mài tằm mắt phượng kia nhìn thấy sự đau đớn của người khác không hề biết chớp, đôi môi nhỏ nhắn màu


    son kia có biết run rẩy khi xuống lệnh cực hình?!

    Chính trong thời gian này sự chịu đựng của tôi đã đến đỉnh điểm, và tôi đem ra đốt bỏ tập hồi ký 10 năm của mình.

    Giờ hồi tưởng lại: đốt bỏ cũng là điều hợp lý thôi, bởi tôi làm sao có can đảm đọc lại nó 1 lần nữa trong đời. Tôi viết nó khi lòng chao đảo mất niềm tin, đau đớn và căm phẩn, tập hồi ký ấy nếu để lại chỉ khiến cho ai đọc thấy tự đưa linh hồn mình về địa ngục mà thôi!

    Tôi nhớ có lần đọc thấy một chuyện kể về hai vợ chồng người phú hộ giàu sang, có 3 đứa con trai xinh xắn và ngoan ngoản. Tuổi đã cao, tiền bạc đã có thừa, họ đưa nhau lên Chùa quy y! Sau khi quy y, lần lượt 3 đứa con ngã ra chết, hai vợ chồng già tuyệt vọng đem chuỗi hạt, áo tràng lên Chùa trả lại cho thầy...

    Rồi lại nhớ “sự tích con chim tu hú”: Một anh chàng phát nguyện đưa đò qua sông không công xá cả đời - trên 1 dòng sông rộng mênh mông và đầy sóng dữ. PB bảo: “Mi chèo qua sông đủ 10 lần ta cho hiển Bồ Tát” Rồi giả làm 1 người đàn bà, cứ hễ thuyền ra giữa sông lại bảo rằng bỏ quên một món, người chèo thuyền quay thuyền trở lại - Đến lần thứ 9 thì chịu hết xiết! PB hiện ra bảo: “Mi tu gì, tu hú thì có”...

    Có lẽ tôi phải chấp nhận sự thử thách nghiệt ngã ấy để đánh đổi cho những gì tôi đã làm được cho tha nhân. Sự công bằng hay bất công cùng nằm trên một cán cân, cán cân kia là cánh cổng Thiên đàng với những linh hồn có cánh...


    Ngẫm lại, tôi thấy thương mình quá! Tôi thương tôi biết bao nhiêu. Nó xinh đẹp hiền lành nhu thuận, nó dịu dàng đôn hậu yêu hết thảy muôn loài, nó tội gì mà phải chịu đòn roi đến thế? Tôi thở dài, nhớ hai câu ca dao: “Tiếc thay hạt gạo trắng ngần, đã vo nước đục lại giần lửa rơm”.

    Đến tháng thứ 5 tôi bắt đầu bị viêm thần kinh tọa, đau thắt từ hai bên xương chậu trở xuống, mỗi ngày một nặng hơn. Đến lúc bại cả 2 chân, phải ngồi dưới đất mà lết đi...khốn nỗi đang mang thai chẳng uống được thuốc gì!

    Con ơi, có biết chăng tấm lòng người mẹ, chịu đựng sự đau đớn để cho con trọn vẹn hình hài, chỉ mong cho sau này con ra đời thành người chí thiện, chí nhân...

    Con ơi, mẹ đánh đổi tất cả bất hạnh đời mình để cho con ngày mai hạnh phúc, Ơn trên sẽ vì mẹ mà cứu lấy đời con:


    “...Hãy cứ cười cho trọn vẹn nghe con Mẹ nuốt lệ, vì con mà sống

    Dẫu đời mẹ không còn niềm hy vọng Vẫn gọi đông về giấu kín, để con vui”...

    (Với con)


    “...Cô gái Hoàng Cầm chỉ thức một đêm thơ Đêm dẫu dài vẫn chỉ là muôn một

    Đêm đời mẹ dài theo chiều con trốt

    Con trốt xoay theo định mệnh dần xoay”...


    (Trường dạ Cô Miên)

    Và:

    “...Đứng lên đi, trời ngoài kia đầy nắng Vai mẹ đây, cúi xuống để con trèo!...” “...Hát nữa đi con, múa nữa đi con

    Để cho mẹ thấy lòng mình vui lại Mưa đầy trời, mưa hoài, mưa mãi Mẹ lạnh một đời

    Vẫn mong ấm phần con!..”

    (Con tôi hát trong mưa)


    Đến 9 giờ sáng ngày hai mươi tám tết, tôi bắt đầu đau bụng, đồ đạc chuẩn bị sẵn cả rồi. Ngặt nỗi còn 2 triệu tiền báo xuân, sáng 30 tết người ta tới lấy, không bán được lấy tiền đâu trả bây giờ?

    Tôi thắp nhang lên bàn thờ xin PB cho chậm sanh 2 ngày, để bán hết báo xuân lấy tiền trả nợ! 10 giờ 30 bắt đầu ra tí huyết, tôi lấy băng vệ sinh ra băng, lại cầu xin PB cứu, rồi lì lợm ngồi bán tiếp - Thỉnh thoảng lại đau quặn qua 1 cơn, ra tí huyết... Lại cầu cứu PB, thế mà không sanh, chịu được tới chiều mùng 1 tết còn chở đi chúc tết Má và các em. Đến 10 giờ đêm thì vỡ ối, nước ra ướt cả chiếu! Tôi lại cầu xin: “PB ơi, mùng 1 tết Bác sĩ đâu có mà đỡ đẻ - xin cứu con chịu qua đêm nay.” Năm giờ sáng đi BV - BS đo huyết áp 18/16: “Coi chừng sản giật! Đưa vào phòng cấp cứu”. Đau bụng thúc, đau đến đứt ruột mà chưa sinh được. Tôi nhớ lời PB dặn: “Ta sẽ về đỡ đẻ cho con” Tôi khấn thầm: “PB ơi cứu con, con đau đến chết mất”!

    Cổ tử cung nở mới có 3 phân, chưa có dấu sanh! Chích đến 6 mũi thuốc, thêm mũi thứ 7 chích thẳng vào chai dịch truyền, tôi mới sinh - Trong cơn đau mê, tôi thấy PB mở cửa bước vào, nhìn qua vai BS! Tôi la lên: “PB ơi, ở đây dơ bẩn lắm, PB ra ngoài đi.” PB cười: “Con quên ta là đàn bà sao. Để ta đỡ đẻ cho con”. Nói xong dứt tiếng thì con bé dọt ra...

    Tôi nghe tiếng BS la lên: “Trời ơi”! Máu văng lên đầy bức tường trắng , đỏ cả áo blu BS - Nhau choàng 3 vòng cổ, BS nói: “Con bé này lớn mạng thật, con người ta nhau choàng 1, 2 vòng đã khó sống rồi, nó 3 vòng cổ mà không nghẹt thở mới là chuyện lạ”...Tôi biết rồi, Mẹ cho nhau choàng cổ để kéo em bé lại, không cho bé chui ra sớm đó thôi!

    Tôi phải nói dài dòng và chi tiết đến thế, về một chuyện không được “sạch sẽ” so với đề tài quyển sách. Bởi vì muốn cho bạn đọc thấy hết sự huyền nhiệm của bàn tay các Đấng, in dấu ấn hiện thực trong đời sống của tôi từng ngày, từng ngày như thế đó! Và bàn tay ấy vẫn tiếp tục nắm lấy tay tôi suốt 23 năm, để xoa dịu nỗi đau


    của con người...

    Mặc dù những lúc đau đớn và tuyệt vọng tôi có căm phẩn oán thán, PB, Người cũng không giận tôi đâu, tôi biết! Bởi những gì tôi phải chịu lớn quá và tôi đâu có tội gì để phải chịu như vậy.

    Trong thời gian nầy tôi còn nuôi con nhỏ, PB lại cho tôi nghỉ thêm để dưỡng sức. Khi PB tuyên bố như vậy, người đã sắp xếp mọi chuyện cả rồi...


    THƠ VĂN KHUYẾN ĐẠO CỦA HUỆ MINH

    (QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT)


    Hít một hơi thật dài, xua đi ảnh hưởng nặng nề mà tôi vừa mang đến cho các bạn trong chương mục thứ 17. Chúng ta hãy lắng tâm mình, để tưởng như nghe thấy giọt Cam Lộ Thủy nhuần rơi từ bàn tay Đấng Từ Bi, thấm sâu vào tận cùng những mạch đời bất Từ Bi, thấm sâu vào tận cùng những mạch đời bất


    LỜI HIỆU TRIỆU NHỮNG VÌ SAO


    Một tia chớp từ thượng tầng thanh khí Soi sáng Thiên hà

    Lời hiệu triệu những vì sao! Vũ trụ rùng mình tỉnh giấc chiêm bao

    Nghìn trùng gió, tin truyền đi muôn hướng Mây lớp lớp tầng tầng qua khắp chốn Đêm hoang vu vời vợi một trời không Trăng thắp đèn xua bóng tối nghìn năm Vẫn thăm thẳm một màu đêm lồng lộng Một tia chớp vạch trời cao soi núi thẳm Lời sấm truyền rung chuyển cả trời quang Đá núi cao đồng vọng những huyền âm Và núi lở, đá lăn lòng đất hẹp

    Vùng tỉnh thức cả Trời Người –

    Giờ chuyển tiếp!

    Ngửa bàn tay đón ân sủng cõi Thượng Thiên Phép lành ban cho muôn chúng tín nhân

    Lần dấu Pháp đợi chờ duyên xóa nghiệp Hoa Thanh khí nở trên vùng uế trược Xóa hận thù, mở rộng vòng tay

    Bao đau thương oan trái một kiếp người Cam Lộ Thủy rửa sạch đời trong muôn một Đóa sen trắng giữa bùn thêm tinh khiết Liên hoa đài đâu để dấu trần hoen

    Tự tầng cao về với cõi Trầm luân Mai chuyển kiếp -

    Lại trở về phụng lệnh!


    25/7/2000

    HUỆ MINH chấp bút!


    KHUYÊN CON


    Đời ngắn lắm, nầy tu mau kẻo trễ! Bao năm dài Mẹ xa cách con thơ Lòng dạ này như rối tựa guồng tơ

    Duyên chưa điểm, đầu con dường đã bạc Hoa Khai Kiến chờ dâng lên cửa Phật Cặp thuyền Từ, Bến Đạo ới nầy con!

    Mõi mê đời, tủi phận với hờn duyên Con của Mẹ lại về bên chân Mẹ Một bến Giác trăm nẽo về Trí Huệ

    Một sông Mê ngàn vạn cánh buồm dong Mẹ chờ con ở giữa chốn bụi hồng

    Đem quả Thiện về dâng cành lộc Chủ

    Gió sẽ tạnh, mưa sẽ ngừng cho xuân ngự Vầng thái dương lộng lẫy một trời xa Quên đi con bão táp với phong ba

    Bàn tay Mẹ độ đời con chuyển nghiệp! Trăm uế nhục Mẹ trả bù sau trước Vạn căn lành lộc phước Mẹ ban cho Vững lòng tin con trẻ chớ buồn lo

    Quy mạng lễ con đáo đầu phụng lệnh


    Mùng 1 tháng tư năm Tân tỵ (2001) HUỆ MINH chấp bút!



    NẺO GIÁC


    Qua sông mõi lái trách dòng sâu Vượt cạn nào hay lỡ chuyến tàu Mây trắng vời trông cơn nắng hạn Bụi hồng chạnh nhớ buổi mưa ngâu

    Trăng Thiền rạng tỏa trời mông muội Aùo Bụt yên che cõi tịnh cầu

    Ai khách thường trần qua bến đục Nương dòng Bát nhã vượt mê lầu.


    25/11/2006

    HUỆ MINH chấp bút!


    BƯỚM HOA


    Thiên hà động giấc muôn tinh Sao sa cõi Thế, lộ trình tha hương Đêm trần mờ mịt khói sương

    Ngỡ nơi tiên cảnh, lạc đường bướm hoa...




    HOA THANH KHÍ


    Trần ai một cõi đi về

    Hoa Thanh khí nở, bốn bề phong sương Cành lá sắc níu thanh hương

    Nghe trong ảo ảnh vô thường thơ bay!


    LINH CĂN CHỦ XÁC


    Đến cuối năm 1990, một buổi tối tôi đang ngồi bán báo, cậu công nhân nhà máy Satimex tên Thu, đang ngồi uống nước bên kia đường vụt bước sang bảo tôi: “Bửa nay tôi nhìn thấy Linh căn của chị rồi - là Quan Âm Diệu Thiện”. Tôi gạt đi: “Nói bậy mang tội chết đó” – “Ừ tôi nói vậy Chị không tin thì thôi...”

    Cậu Thu tuổi chừng hăm mấy, người hơi “lưng tưng”, hay nói những điều khác thường, mọi người gọi chết danh là “Thu khùng”! Và tôi quên mất chuyện này, mãi đến 10 năm sau tôi mới nghe lần thứ hai...

    Một đêm nọ (vào cuối năm 1993). Lúc 8g30 tối ngoài trời đang mưa tầm tã, cậu Thu đội áo gỏ cửa nhà tôi, vào nói: “Ổng Bả biểu tôi nói, tôi không nói tôi bị đòn. Họ biểu tôi đi, tôi phải đội mưa đi vầy nè, thấy hông. Ổng Bả biểu chị phải nhớ cúng vía giờ ngọ hàng tháng ngày mùng 8, 18, 28 - Chị còn 1 phần linh căn bên Địa Mẫu. Cúng vía Địa Mẫu thì Mẫu mới trợ cho chị được không thì chị còn khổ dài dài...”

    Quả thật lúc ấy tôi không hề để tâm tới lời Thu khùng nói, hắn nói lung tung đủ điều, quả là khùng thiệt rồi! Vốn cậu Thu là người dốt chữ, lại chân quê ăn nói bổ bả quen miệng rồi: “Nó kêu ai bằng Ổng Bả vậy kìa” Tôi nghĩ mà cũng chẳng thèm hỏi lại, rồi quên đi mất...

    Về sau mới biết cậu Thu có phần Căn bên Địa Mẫu, nhưng do chơi thân, theo thầy bùa, thầy ngãi gì đó mà bị hành hoài! Có điều Thu coi quẻ hay lắm, nói đâu đúng


    đó: Lần Thu nói Ba tôi sống không quá tháng 5, quả đúng ba tôi chết mùng 8 tháng 5. Còn con trai lớn của tôi, Thu bảo: “Không qua khỏi tháng này” thì đúng 28/10 con tôi chết, chuyện này, tôi xin kể cho bạn đọc nghe vào chương sau!

    Cuộc đời tôi, phép lạ ứng nghiệm từng ngày, hăm mấy năm là ngần ấy phép huyền nhiệm của “Ơn trên” - Cho kẻ hữu duyên tìm đến, cho gia đình, bè bạn, cho Cha mẹ, các em và các con...

    Sự huyền nhiệm ấy diễn ra từng ngày, về sau (kể từ đầu năm 2000) có ngày cao nhất tôi phải giải quyết 5 vụ việc liên quan đến âm phần, có ngày chữa đến 30 người.

    Từ năm 2001 đến nay, tôi mới bắt đầu ghi lại sổ thăm khám bệnh, có đầy đủ tên tuổi và địa chỉ của bệnh nhân. Bệnh chẩn, phương pháp, thời gian điều trị. Rút kinh nghiệm từng trường hợp một...Những bệnh khó chữa khi hết bệnh nhân ký tên xác nhận đường hoàng!

    Để cho mạch chuyện được liên tục, tôi xin phép trở lại “Linh căn chủ xác”

    Năm 2000, ăn tết xong tôi cất nhà trên đất mới. Ngày rằm tháng 4 năm ấy, tôi vừa Thượng trang, thắp hương xin PB về chủ lễ. Mẹ Quán Âm về, đứng chắp hai tay sau lưng ngắm ảnh Phật Bà ngồi trên tòa sen tôi vừa đặt lên, hỏi: “Con thờ ai đây?”. “Dạ, Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát” – Tôi nói rành rọt, ngẩn người ra, không biết PB nói thế với ẩn ý gì! Người lại nói: “Trật lất! Quan Âm Diệu Thiện - thờ chính Linh Căn của mình bao nhiêu năm nay mà không biết”


    Xong người nói cho tôi biết: Quan Âm Diệu Thiện tình nguyện xuống độ thế, xác trần sống 63 năm. Tôi hỏi: “Nếu là người Nhà Phật tại sao con không trường chay, cạo đầu, trì niệm và không đi tu?”. PB giải thích: “Người nào việc ấy, đó là việc của người Hoằng Pháp. Độ Trần là ở ăn cùng trần thế, là lăn lộn khổ nạn cùng thế nhân, giống y như thế nhân vậy!”

    Tôi lại hỏi: “Nếu con là QA Diệu Thiện, tại sao lại để cho con khổ nạn trùng trùng như vậy? Để phải chịu ô uế xác trần đến 2 đời chồng tai tiếng oan gia nghiệp chướng, sao Mẹ lại chẳng cứu con?” PB bảo tại tôi trả nghiệp cho người ta đấy thôi: “Đã bảo những người bệnh do hành căn trả nghiệp thì con đừng chữa, con không nghe thì trách ai? Người ta nợ 10 đồng, mới trả được 2, 3 đồng chạy tới kêu khóc với con, con đưa tay ra cứu thì phải chịu trả thế cho họ vài đồng - họ bị án 10 roi con cứu tất nhiên phải chịu phụ cho họ vài roi, trách ai bây giờ!”

    Tôi khóc nói: “Hai người cùng bị nạn và gục xuống như nhau, Mẹ bảo con cứu một người và bỏ một, con không làm được. Một là con cứu cả hai, hai là con không làm gì cả, con trả phép cho Mẹ! Mẹ lấy phép lại đi để cho con làm người trần thế bình thường, khỏi nhìn thấy cảnh bất công như vậy”.

    PB lại bảo: “Ta gieo một cái hạt giống, ta chẳng đời nào để cho nó thui chột đi. Chờ đấy”! Nói rồi biến mất...

    Trưa hôm sau, có cô Nhung ở gần nhà rũ tôi lên chỗ xác Mẹ Quan Aâm cứu khổ cứu nạn, tò mò tôi cũng đi theo!


    Cô Yên, trước cũng là Giáo viên, người đẹp đẽ, nghiêm trang và đạo hạnh - cô kể sự tích Mẹ về hành xác để ra căn, nghe mà bắt rùng mình: Trước cô bị bệnh nặng, liên miên hơn 2 năm trời, thuốc men BV khắp nơi chẳng ăn thua gì. Người “man man” luôn, nhìn đâu cũng thấy ma quỷ, mỗi lần thấy lại ngã ra xỉu cứng người...

    Đến lúc bỏ ăn 11 ngày nằm liệt một chỗ mê man. Sáng hôm đó tỉnh dậy thều thào bảo gọi hết cha mẹ 2 bên lại để cho cô nói chuyện. Khi tập trung đủ hai họ, cô Yên nói: “Ta là Quan Aâm cứu khổ cứu nạn. Nay Ta muốn về xác để độ trần. Ta cho hai họ bàn tính lại với nhau, nếu đồng ý thì Ta cho xác sống, còn không thì sữa soạn đem chôn đi”. Hai nhà bàn đi tính lại, cuối cùng phải đồng ý. Thế là từ 1 người Đạo Thiên Chúa cô Yên trở thành người xem quẻ, xác Mẹ Quan Aâm cứu khổ cứu nạn!

    Tôi đến đó đã 12 giờ trưa, ba chị em chưa ai ăn cơm thế mà ngồi nói chuyện đến 4 tiếng đồng hồ. Cô Yên về xác Quan Aâm cứu khổ cứu nạn, còn tôi Quán Thế Aâm Bồ Tát nhập! PB cứu khổ theo năn nỉ bên tôi xin tha cho xác trần, đừng có hành xác quá không nên! Giọng nói của Người dịu dàng, thuần hậu, còn giọng nói của Quán Thế Âm thì cứng cỏi, quyền uy và nghiêm khắc. Khi Điển trên rời đi, nhìn lại đã 4 giờ chiều…

    Xác cô Yên không biết mình nói gì, còn tôi thì nhớ không sai chi tiết nào - ra về còn nhớ mãi giọng nói êm êm như ru của Mẹ cứu khổ ... Mẹ người ta thương con đến vậy, còn Mẹ của mình thương cho roi cho vọt, nghĩ buồn quá...!

    Quan Aâm Diệu Thiện rất ít khi về xác, mỗi lần tôi đau quá, van nài kêu khóc - Người về, nhìn tôi rơi nước mắt mà chẳng làm gì được, nói: “Vì Ta mà con khổ”. Thế rồi bỏ đi…

    PB thì nói quanh co cho qua chuyện: “Nếu Ta can thiệp, sau này không tròn căn quả, về trên Diệu Thiện trách ta, ta biết ăn nói làm sao?” thì ra (tôi nghĩ mà không dám nói): “Quan Aâm Diệu Thiện xuống trần để chịu đau thế cho người chứ không phải để độ người”.

    Mãi đến đầu năm 2008 là thời gian tôi chuyển được nghiệp trần lẫn Căn đạo, Mẹ Diệu Thiện mới về và cười với tôi lần đầu, cũng là cười trong nước mắt. Q Â Diệu Thiện! Đúng như tên gọi, Người hiền lành và dịu dàng lắm - về với tôi luôn mặc 1 chiếc áo màu lam bình dị, không sang trọng và uy nghi như PB. Người còn trẻ, chỉ chừng hai mươi mấy tuổi - còn PB thì trông người trên dưới 40 tuổi.

    Chỉ từ rằm tháng tư đến nay, Mẹ Diệu Thiện hay về thay tôi hành xử. Có điều cũng không ra mặt! Khi tôi cần đưa linh hồn đến đâu đó để điều tra, nhìn lại thì thấy không phải xác trần của mình, mà là Quán Aâm Diệu Thiện. Người đến chẳng đợi tôi mời, ra đi cũng chẳng cần tôi tiễn! Hèn nào con giống Mẹ: chẳng cầu kỳ trong ăn vận, chẳng trang điểm phấn son, không khoe khoang thành tích, không màng danh lợi xa hoa - Ăn uống cam khổ, đạm bạc qua ngày các thức sơn hào hải vị không hợp khẩu, bạn sang giàu danh vọng ít gần, người thiếu thốn đói nghèo năng gặp...


    Học theo Phật: “Đi không để lại dấu chân: Cho bàn tay phải, bàn tay trái không hay biết”.

    PB hay nói, mãi rồi tôi cũng quen miệng: “Chúng ta là người nhà Phật”. Lắm lúc bị người sửa lưng - Tôi chỉ cười trừ! Có biện minh nầy nọ, chỉ tổ người ta bảo mình “bệnh tâm thần” mà thôi...

    Chỉ có bệnh nhân, người cần tôi là biết tôi. Hàng xóm cách vài căn chẳng ai biết tôi làm gì, ngay cả các em của tôi còn bảo: “Chị Hai ở không suốt ngày mà cứ than bận”!

    Đối với nhân thế thường tình thì làm lụng “đầu tắt mặt tối” để có tiền muôn bạc vạn mới là giá trị của con người. Nhân suy nghĩ nầy, tôi làm bài thơ “Phong trần khách”. Xin tặng bạn đọc vài bài Thơ Khuyến Đạo của Diệu Thiện (Tịnh Vân).


    THƠ VĂN KHUYẾN ĐẠO (3)



    PHONG TRẦN KHÁCH


    Giữa cõi phong trần xem lá rụng Ngắm khách trần gian lũ lượt về Cười khan: nhân thế mơ hồ mãi Đêm dài nghe gió cuốn lê thê...


    Lạc lõng mình ta nơi phố chợ

    Rao mời Nhân Nghĩa chẳng người mua Kẻ áo Công Hầu buông chẳng nở

    Người thang Khanh Tướng lã đường trưa!


    Giọt mật phù hoa rơi mái cỏ Hóa hạt sương chờ Cội phúc xưa Ta vén mây mù, trăng lại tỏ

    Tầm nẽo Chân Như vẹn ước thề...


    24/7/2007

    Tịnh Vân


    Tịnh Vân là bút hiệu của tôi đó! Sẵn đang lúc hứng khởi, tôi chép lại vài bài thơ khuyến thiện, để các bạn đọc cho vui, nghe!


    CHUYỆN NGƯỜI LÀM VƯỜN


    Người làm vườn

    Trên luống cày đơn độc

    Mưa gió, bão cuồng, chớp giật Ngày lại ngày...

    Giọt mồ hôi rơi xuống đường cày Hóa loài cỏ lạ màu xanh biếc

    Rẽ lối bể dâu, vượt cồn sóng lạc Lặng thầm vươn!

    Người làm vườn nhỏ bé vô danh Uùp mặt vào đêm, thao thức Những đường cày lẻ loi, bất lực Bao giờ đất phủ màu xanh?


    Ngóng về xa vô tận mênh mông Thiên hà vẫy gọi

    Giữa trời đất chập chùng bóng tối Biết nơi nao là lối đi về?...


    Trên luống cày đơn độc lẻ loi

    Người gieo những hạt mầm ngủ muộn Đợi một ngày mưa xuống

    Lại hồi sinh cây Thiện giữa đời

    Hạt Bao Dung che bóng mát phận người Hạt An Lạc che ngày giông bão

    Hạt Từ Bi xin làm Hướng Đạo Để muộn phiền nở đóa Vô Ưu!


    Người - làm - vườn - làm thơ!

    Vần điệu dấu che bao điều huyễn hoặc Đêm - giữa cội nguồn vô thức

    Người ra đi, về phía Thiên Hà...


    Tịnh Vân


    DƯƠNG CHI TỊNH THỦY - PHÚC LẠC HỒNG ÂN


    Từ bàn tay Người mầu nhiệm

    Giọt Cam Lồ rửa sạch tội chúng sinh Từ bàn tay Người mầu nhiệm

    Cành Dương Xanh ban những hồng ân Cõi thế nhọc nhằn đau khổ trầm luân Có bàn tay Người xoa dịu!

    Sóng áo lụa rũ mây trời tan hợp Điểm Linh quang soi thấu bể tam đồ Đêm thế trần có đuốc Huệ bừng soi Người trong cõi u mê tầm dấu Phật

    Tâm từ ái, Người đâu ngồi trong Tịnh thất Nỗi đau đời xót dạ Đấng từ bi

    Chẳng chờ ai phủ phục dưới chân đi Người tìm đến, chìa bàn tay cứu rỗi Muôn chúng sinh cúi dập đầu trước bệ “Đứng lên đi, mau hành đạo cứu đời Nầy con ơi! Long hoa hội tới rồi

    Đời mạt Pháp – tu mau kẻo trễ.”...


    Người tưới mát hồn con bằng dòng Tịnh Thủy Nâng bước con bằng phép nhiệm Dương Chi Con ngẩng đầu, tầm theo dấu Người đi

    Bàn tay ngắn nguyền độ đời trong muôn một...


    7/3/2000




    NGHIỆP THẾ

    “Đừng đợi già mới tìm đường theo Phật Những nấm mồ hoang rặt thiếu niên”


    Đời tất bật làm ta quên chân lý Trốn bão giông, ta rẽ lối thay đường Thơ khóc mãi bao mùa chưa ráo lệ

    Sông Mê dài, thuyền mỏng, vượt sao đang!


    Ta cúi đầu dưới tượng đài lễ Phật Trái tim se, từng nhịp đập ngậm ngùi Lòng sám hối mà sao chưa tỉnh ngộ Hồn ăn năn sao chân bước cứ rời?


    Người vĩnh cữu nên bình an vạn thuở Ta kiếp trần hữu hạn vốn đổi thay Hồn nổi sóng nay dập đầu trước bệ

    Thiên thu đời trong khoảnh khắc nầy thôi!


    Sao chẳng rũ bụi trần ngoài hiên nắng Dưới Phật đài giữ chút dạ thanh trong Sao chẳng ném bể dâu trên đường vắng Dưới chân Người, bình an đến vô cùng...


    Xa Bến Giác, chốn hồng trần còn nợ Ngược Sông Mê, dạ thế vẫn còn mang Đời có phút này thôi, rời chẳng nỡ Phật đài ơi! Dẫu thác vẫn không quên!


    27/10/1993


    LÒNG MẸ


    Aùnh sáng diệu kỳ từ hào quang của Phật

    Vẫn lặng lẽ chảy tràn, thấm đượm chúng sinh Vẫn âm thầm gỏ cửa những buồng tim

    Hạt giống Thiện thay đời cho nghiệp dữ!


    Tâm Từ ái xót người trong Mê lộ Đêm thế nhân dài lắm, Mẹ hiền ơi!

    Đuốc Huệ sáng ngời Mẹ rộng lòng soi Thuyền Từ đó độ người cơn lầm lạc!


    Con chẳng đến dưới chân Người, trong Tịnh thất Không trường chay, chẳng khoác áo cà sa Chẳng gìn lòng, xa lánh chốn phù hoa

    Mãi ngụp lặn giữa trần ai, bể khổ…


    Những đêm dài vẫn nghe lòng nổi gió Trở dậy, âm thầm Mẹ đã kề bên

    Con khóc con buồn Mẹ nhủ Mẹ khuyên Mẹ vuốt tóc – ôi dịu dàng tay Mẹ!


    Con lại đứng lên giữa đời giông bão Lại bước đi – có lòng Mẹ theo cùng Thân dẫu đau, đời vùi dập muôn phần Tâm chẳng loạn, bởi bao lời Mẹ dạy...


    3/10/1994


    LẠC BƯỚC


    Chốn Phật đài một chiều nao lạc bước

    Duyên – không duyên, hương khói quyện chân ngày Giữa cuộc đời còn kẻ tỉnh người say

    Thì hư thực – giả chân nào ai biết!


    Người Chín Bệ vẫn trầm tư mắt khép Chốn nhân gian còn bao nẻo luân hồi Kiếp vô thường mờ mịt dấu sương rơi Đường mây rộng đi về dăm ảo ảnh!


    Dòng Đuốc Tuệ soi đêm trường ấm lạnh Sắc Liên Đài hoằng thịnh chốn Từ Nghiêm Màu hư linh phảng phất cửa Thiền môn Duyên chưa điểm – ơ hờ câu Mặc Khải!


    Cõi Yên hoa khách hồng trần mê mãi Men phù trầm say đắm dạ thường nhân Sóng trần dương vùi lớp lớp mê phong Sao chẳng tỉnh, mãi trôi dài hoạn lộ?!


    Chốn Phật Từ chưa quen hồi tế độ

    Bát cơm rau nhạt miệng giữa kinh thành Ngoảnh nhìn sau, rồi tàn cuộc trăm năm Mãi lạc bước đường Mê, lòng có hận...


    Tháng 6/2004


    NGUỒN TRỢ DUYÊN MỚI – THỰC HÀNH CỤ THỂ (4)


    Đầu năm 1999, tôi đi học thêm về Nhân điện! Từ đó đến nay tôi có thêm 1 nguồn hỗ trợ quý báu cho mình. Biết cách tự thiền để nhận Điện, tôi không còn bị mệt khi chữa bệnh cho nhiều người! Và điều quý báu mà tôi nhận được là chữa bệnh cho chính mình - Đương nhiên chỉ những bệnh của xác trần, còn bệnh do “chịu đòn thế” cho người khác thì… “bất lực”!.

    Tôi trở thành một “Bà Lang” chuyên nghiệp, có bài bản và kết quả đạt được cũng khả quan hơn. Tôi chép lại một số ca chữa bệnh của tôi, vì khuôn khổ quyển sách có hạn nên không thể trình bày hết được. Mong bạn đọc thông cảm!

    Ngày 20/11/2001, Vũ Đan Chi (6 tuổi) bị phỏng nước sôi nguyên bàn tay. Trị 03 lần (2 ngày) thì hết hẳn mọi triệu chứng.

    Nguyễn Thị Aùnh (60 tuổi) bị đau lưng, thần kinh tọa hơn 10 năm đã chữa nhiều nơi không khỏi. Trị 10 ngày sau thì hết đau!

    Lê thị Lệ (2 tuổi) bị té trật cánh chỏ phải xương khớp bị trồi lên cao, sưng và rất đau đớn! Sau lần điều trị đầu tiên xương chỏ đã trở về nguyên vị, 4 lần thì hết đau hẳn.

    Lê Hồng Kỳ (65 tuổi) lên huyết áp đột ngột (trên 16). Sau khi điều trị 10 phút, huyết áp trở lại bình thường (12/8).


    Trần Trọng Huệ (45 tuổi) bị ngã từ giàn giáo xuống chấn thương, ngất xỉu! Chẩn đoán: chỉ bị phần mềm, không ảnh hưởng các cơ quan nội tạng. Tôi vào tận nhà chữa, sau lần đầu tiên đã ngồi dậy và bước đi được, sau 1 tuần (7 lần điều trị) hết đau hẳn.

    Nguyễn Hoàng An (16 tuổi) bị chấn thương tét phần trán 4 phân, máu chảy rất nhiều. Cầm máu, khử trùng, làm ngủ, giúp liền da không để lại sẹo (không cần may). Sau 10 ngày hết hoàn toàn (có kết hợp nhỏ nước lá hoàn ngọc).

    Nguyễn Thị Huyền (25 tuổi) chóng mặt, xây xẩm, ngất (lập đi lập lại). Chẩn đoán: thiếu dinh dưởng, bao tử hoạt động yếu, thiếu máu não, nhược toàn thân, hư huyết. Trị: thần kinh, bao tử, chỉ huyết điều kinh - sau lần thứ 2 hết chóng mặt, 01 tuần sau thì khỏi hẳn.

    Nguyễn Thành Công (8 tuổi) chảy máu cam mãn tính hằng đêm trong lúc ngủ. Người gầy ốm, xanh. Trị sau 3 ngày thì hết hẳn.

    Nguyễn Thị Duyên (18 tuổi) bị xoang trán, mũi, tái viêm nặng, sưng đỏ mũi và sốt cao. Điều trị sau 1 tuần hết đau, viêm!

    Ngô Thảo Nhi (5 tuổi) bị cảm, viêm phế, sốt cao, khó thở. Điều trị hết sau 5 lần (3 ngày).

    Trần Minh Khang (4 tuổi) bị trúng thực nặng: tiêu chảy, nôn ói, mất nước, co giật, sốt cao. Bác sĩ không nhận chữa (vì tình trạng nặng). Tôi cấp cứu và chữa hết cho cháu sau 3 ngày, hoàn toàn khỏe mạnh bình thường!

    Nguyễn Thị Ngâu (84 tuổi) dau do xẹp đốt sống L3


    L4. Cấp cứu ở bệnh viện về mang nẹp lưng! Chữa 1 lần giảm đau, bỏ nẹp lưng. Sau 1 tuần tái khám xương sống trở lại bình thường( điều trị kèm thuốc tây).

    Nguyễn Thị Kính (28 tuổi) bị viêm phần phụ: bụng sưng cứng và to, sờ vào rất đau! Chẩn đoán: do đặt vòng biến chứng, đề nghị tháo vòng. Chữa hết sau 3 lần.

    Nguyễn Quốc Dũng (12 tuổi) bị té xe chỏi tay. Chẩn đoán gãy xương, đề nghị chụp X quang! Kết luận đúng như phán đoán. Điều trị hết, trở lại bình thường sau 15 ngày (20 lần điều trị).

    Võ Văn Chi (24 tuổi) bị lệch vẹo cột sống 1 tháng rưỡi, điều trị bằng thuốc chích giảm đau và thuốc uống ở nhiều bác sĩ và bệnh viện - hậu quả là thuốc làm hư thận và bàng quang, nước tiểu tự động chảy ra, người gầy ốm còn 37 kg. Bệnh viện trả về chờ chết.

    Trường hợp này tôi phải điều trị đúng 2 tháng. Xin thầy Hải Thượng về cho thuốc để trị cho gan, thận. Kết hợp tập đi (hàng ngày đi trên 1 đường thẳng, đội 1 quyển sách trên đầu).

    Các bài thuốc Thầy cho tôi đã chép lại cho bạn đọc ở chương 15, trang…

    Hai tháng sau, bệnh nhân hết đau. Gan và thận đã trở lại bình thường, ăn uống và lên cân trở lại. Cho đi bệnh viện làm xét nghiệm, kết quả đúng như chẩn đoán!

    Hết bệnh, cậu Chi theo tôi học nhân điện, hiện nay chữa cho mọi người rất tốt. Khi tôi đau nhiều, tôi trốn về nhà Mẹ và giao chìa khóa cho Chi ra mở cửa đón bệnh nhân và chữa thay cho tôi. Có ai nhìn và tin cậu trai lực lưỡng trên 60kg này ngày xưa chỉ còn có 37kg…

    Tô Thị Mỹ Xuân (26 tuổi) bị tai nạn xe cộ nứt 2 bên gót chân, bó bột từ trên gối trở xuống. Đau nhức, sưng cứng chân và không đi được! Tôi điều trị sau 2 ngày (4 lần) hết đau nhức đến ngày thứ 4, bệnh nhân tự ý tháo bỏ băng bột! Chữa hết mọi triệu chứng sau 15 ngày (chỉ dùng thuốc giảm đau 3 ngày đầu tiên).

    Nguyễn Thị Thìn (27 tuổi) hở van tim bẩm sinh, thường xuyên làm mệt, thiếu máu nặng, đầu váng vất, tay chân bủn rủn! Chẩn đoán độ 8 – 10 nhịp tim lại nghe tiếng rít dài rất lớn…

    Ngày đầu tiên vừa đến nhà tôi đã ngã ra xỉu, tôi cấp cứu và điều trị sau 10 lần, tim trở lại bình thường, hoàn toàn hết tiếng rít, người khỏe dần, ăn ngủ được (lúc ngất xỉu, đo tim 105, huyết áp 9/7).

    Sau 1 tháng điều trị (cách nhật). Cô Thìn hoàn toàn hết hở van tim, nhịp 72/ phút. Sau đó nửa năm cô có trở lại thăm tôi, kiểm tra lại nhịp tim vẫn ổn! (Có sử dụng 20 thang thuốc “sinh mạch” gồm có 3 vị: nhân sâm, ngũ vị và mạch môn)

    Trần Hồng Hải (14 tuổi) té chỏi sưng cánh tay. Chẩn đoán nứt xương, gãy kín. Đề nghị chụp X quang! Kết quả đúng như vậy. Tôi khuyên bệnh nhân uống calci và ăn tôm, tép, cua… Điều trị hết hoàn toàn sau 20 ngày!

    Lê Văn Hưng (4 tuổi) bệnh yết hầu tái nhiễm! (trước đó 1 tháng đã nằm bệnh viện 1 tuần và chữa hết). Màng trắng đóng dầy trên vòm họng và cổ họng, sốt cao, nổi hạch, khó nuốt! Tôi đã điều trị hết mọi triệu chứng


    sau 4 ngày, kèm súc miệng bằng giấm pha đường (thầy Hải Thượng chỉ dạy!). Uống thêm nước chưng giá với đường phèn!

    Nguyễn Thị Phương Thúy (11 tuổi) bị trái rạ toàn phát, sốt cao, viêm phế quản – khó thở, đau nhức! Sau 2 lần điều trị mụn nước lặn dần, liền mặt và không lên mụn mới. Một tuần sau hoàn toàn hết bệnh.

    Nguyễn Thị Lý (2 5 tuổi) bị zonar toàn bộ phần trước và sau mông; nổi mụn rộp ăn lan màu tím ngắt, trông rất đáng sợ – sốt, rét (ớn lạnh)! Tôi chữa hết mọi triệu chứng sau 1 tuần lễ…

    Phan Thị Hà (10 tuổi) bị lên sởi – sốt cao, sởi lên nhiều! Ngay lần đầu điều trị sởi đã cầm không lên nữa. Ngày thứ ba hết sốt. Sau 5 ngày (5 lần chữa) bệnh khỏi hẳn!

    Lê Thị Nhung (10 tuổi) bị sốt siêu vi. Trị hết sốt hoàn toàn sau 5 lần.

    Vũ Thị Trâm Anh (3 tuổi) bị sốt nửa người trên, lạnh 2 chi dưới. Bệnh viện không tìm ra bệnh. Chữa hết sau 5 lần.

    Vũ Văn Đoàn (30 tuổi) bị zonar một bên tay và 1 bắp chân. Chữa hết bệnh sau 5 lần điều trị.

    Nguyễn Thị Thùy Trang (9 tuổi) bị bong gân bàn chân trái và sưng đau khuỷu tay trái. Chữa hết đau, viêm sau 4 lần!

    Nguyễn Ngọc Loan (12 tuổi) bị chấn thương giữa trán tét 1 phân rưỡi, máu chảy rất nhiều, trầy xước nhiều chỗ trên tay và mặt. Chữa lành toàn bộ các vết thương


    sau 7 ngày (9 lần điều trị). Không phải may, không để lại sẹo!

    Trần Thanh Liên (48 tuổi) bị phỏng nửa bên mặt trái. Chữa hết sau 1 tuần lễ (1 lần chữa trực tiếp, 6 lần chữa qua điện thoại) không viêm nhiễm, không để lại sẹo…

    Mẹ cô Bình ở tỉnh Thanh Hóa (chữa qua điện thoại, không biết mặt). Bà bị hư đường ruột! Cả tuần mới đi cầu 1 lần, đau bụng liên tục và nôn ói - bệnh viện không chữa được trả về! Bà tuyệt vọng, gọi con ở miền Nam về cho gặp mặt lần cuối…

    Cô Bình điện vào nhờ tôi chữa cho Mẹ. Tôi điều trị sau 1 tuần lễ bà đi cầu 2 ngày 1 lần, ăn uống lại bình thường, hết nôn ói và đau bụng!

    Phan Thị Sen (37 tuổi) bị quáng gà, sụp tối là không thấy đường, gần như lòa hẳn! Thầy Hải Thượng cho ăn 3 bộ óc heo chưng (ăn cách nhật). Tôi chữa sau 12 ngày đôi mắt trở lại bình thường.

    Nguyễn Ngọc Loan (12 tuổi) bị trái rạ toàn phát.

    Chữa hết sau 1 tuần lễ…


    NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (3)


    Chúng ta trở lại chương “Nghiệp Thế Trả Vay”. Có theo dõi hoàn cảnh của tôi trong từng thời kỳ một, bạn đọc mới thấy rõ nét hơn nữa sự huyền nhiệm của các Đấng đối với đời sống con người và thực tế nhất là tôi – trong suốt 23 năm dài đăng đẳng…

    Ông bà xưa có câu “Họa vô đơn chí!”. Bạn đọc thử tưởng tượng cảnh tôi vừa lo tiền cất xong 2 phòng trọ để cho công nhân thuê - người đến ở chưa đầy 1 tuần thì hố xí bị nghẹt! Đào hố xí phụ đặt ống thông, vừa ổn được 3 ngày thì gió giông giật tung cả mái tôn lẫn giàn cây, lật ngửa sang phòng bên cạnh, đổ nửa bức tường ngăn! Lại cắn răng vay tiền về sửa chữa – mất 2 ngày đục tường, chằng dây neo mái. Vừa xong chiều hôm trước, trưa ngày hôm sau Má tôi ra sạp báo gọi: “Lan ơi! Về mà coi giông gió lại giật mái tôn còn lại lật sang bên phòng mới sửa rồi kìa!”.

    Lúc đó bạn cảm giác thế nào? Tôi chỉ muốn đứng giữa trời, dậm chân xuống đất mà kêu: “Trời đất ơi! Sao mà khổ đến thế này?”.

    Có lúc trong cùng 1 buổi sáng - Ba mẹ con cùng nhau đi bệnh viện, hai chiếc xe thuê cùng chi phí cấp cứu, thăm khám mất khối tiền. Trong khi chữa bệnh cho người, tôi có lấy đồng bạc công xá nào đâu!

    Bé Chi từ lúc còn trong bụng mẹ đã có cảm ứng. Mỗi lần Ba về rồi đi, chỉ cần thông báo trước 15 phút là hành Mẹ đau bụng quằn người, hễ ba dắt xe vô là hết đau


    ngay tức khắc!

    Sau biết ý – ba nháy mắt với mẹ xong xách xe ra đi ngay tức thì, bé trở tay không kịp nên mẹ mới được yên!

    Độ chừng 4 – 5 tháng tuổi – trẻ con lúc ấy chẳng biết gì – vậy mà ba mẹ cự cãi với nhau là bé giận ba. Ba giơ tay đòi bế - bé hất tay ra, day mặt đi chỗ khác!

    Mới hơn 4 tháng rưỡi – vừa biết lật! Dạo ấy đang mùa bóng đá thế giới, nhà nào cũng xem tivi đến cả đêm, hò hét vang trời! Bé Chi đang ngủ bỗng trở mình lật sấp thật nhanh rồi nhỏm lưng cong như con tôm thét lên một tiếng “vào!!!” rõ ràng như tiếng người lớn, khiến tôi sững cả người…

    Sáu tháng rưỡi, bé ngồi chưa vững! Thấy tôi mua tấm ảnh Phật Bà mới đem về, bé bò tới đập tay lên hình nói hai lần: “pập pà! Pập pà!”. Độ 6 – 7 tháng, trẻ còn chưa biết pi pô những âm thanh vô nghĩa nữa là!...

    Bé Chi được 6 tháng thì chúng tôi về nhà mới. Thuê đất, cất nhà xong nợ như “Chúa Chổm”! Lại thêm tiền bạc làm ra như có ai đó ở sau lưng lấy bỏ vào túi, tính toán mãi mà chẳng biết tiền đi về đâu! Ba bé Chi lo lắng quá, sinh ra nghiện rượu!

    * Lúc bé Chi được 7 tháng rưỡi, tôi đã “ngắm chỗ” để gởi nuôi bé cho tôi đi bán báo trở lại. Đúng 3 lần trong vòng 1 tháng, đều không đưa bé đi được!

    Sáng sớm tôi đi chợ, bé hãy còn chơi, khỏe! Vừa ghé nói chuyện gởi con với chị Diễm xong trở về là thấy bé lên cơn sốt cao, nằm lữ ra đó rồi!

    Bé được 8 tháng rưỡi, tôi làm cơm cúng dâng lên


    bàn thờ Phật Bà xin cho gởi bé, từ đó mới ổn! Chị Diễm giữ bé phải than: “con bé kỳ lạ quá! Mỗi lần tắm lấy áo dơ để xuống đất thì bé mới chịu đứng lên, bằng không cứ co quíu 2 chân lại, không chịu dẫm lên nền gạch hoa! Khăn thì cái lớn lau người, cái nhỏ thì lau mặt – khăn lớn đem lau mặt là bé hất ra không cho lau…

    Cơm ăn phải riêng chén, riêng muỗng! Hễ cô Diễm đút cho bạn khác, quay lại đút bé là bé ngậm cứng miệng lại, không chịu há ra ăn!

    * Khi bé Chi gần 8 tháng. Có người muốn thuê khoảng sân sau nhà tôi (có 1 hồ nước 2 khối) để “làm bò lậu”! Cuối cuộc đất nhà tôi là rẫy tập đoàn, họ chích điện cho bò chết xong đem vô nhà mình xả thịt - cái giá họ đặt ra đến 1 triệu rưỡi mỗi tháng (vàng lúc đó có 400 ngàn/chỉ).

    Tôi không bằng lòng, vì sợ cảnh sát sanh - thế nhưng càng chịu đựng thì số phận nghiệt ngã lại càng dồn! Nợ nần chồng chất, không trả nổi! Hai tháng sau đến bước đường cùng, tôi thắp hương xin Phật Bà cho phạm tội sát sanh: “Mẹ cho phép con cho người ta thuê đúng 3 tháng – lấy tiền trả nợ rồi con ngưng! Chúng con cùng đường rồi, xin Mẹ thương mà xá tội!”.

    Tôi nói với chồng. Ba bé Chi bảo: “để ăn cơm xong, anh đi kêu người ta!” – vừa dứt tiếng nghe đánh “rầm!” một tiếng – bé Chi đang ngồi chơi ở góc nhà bị cây ngã đè cứng trên đầu (nguyên tôi có 1 giường gỗ tạp vừa mua về, còn dựng ở góc nhà chưa ráp lại thành nguyên mẫu).

    Cả người bé không bị gì, trên đỉnh đầu nổi lên 5 cục


    u như đỉnh mụt nhọt – thêm 1 đường gờ chạy từ trán lên tới đỉnh đầu, con ngươi mắt bên trái bị giật sang 1 bên, còn ló ra có nửa! Bé sốt cao ngay tức thời 42 độ, vậy mà không hề đổ 1 giọt máu! Má tôi nghe vậy có lên thăm, cho 100 ngàn bảo đưa bé đi bệnh viện chụp hình sọ não “con ngươi nó lạc mất rồi kìa! Đưa đi bệnh viện ngay nếu không coi chừng khó cứu!”.

    Tôi biết là con mình bị hành – vừa sợ vừa ức! Để bé nằm úp mặt lên chân lấy dầu xức, vừa xức vừa khóc, lầm bầm: “ác gì mà ác dữ vậy! Con bé biết gì mà hành nó – có giỏi thì hành tôi đây này, cho xe nhà binh đụng chết cho rồi đi. Tôi đâu có muốn sống làm chi!”. Vừa dứt tiếng, con bé chợt nẩy lên một cái dập mặt xuống nền nhà – bứt nướu răng, máu chảy không cách nào cầm lại được…

    Ngay lúc đó Phật Bà về nói: “Ta đã nói với con rồi, món quà đó là do ta mang đến, ta lấy đi lúc nào cũng được! Sát sinh là tội trọng của nhà Phật mà con muốn nhúng tay vào máu sao?” – rồi Người hạ giọng: “Để ta làm cho nó hết sốt nó ngủ – khỏi đi bệnh viện, lấy chai nước nóng chườm vài hôm là lặn. Con ngươi mắt từ từ sẽ bình thường trở lại, không có di chứng gì cả – nướu răng cũng 1, 2 ngày thì lành, khỏi thuốc men gì!”.

    Nói vừa xong, quay lại thấy bé Chi đã lăn ra ngủ, không còn sốt nữa!

    Tôi chẳng dám đưa con đi bệnh viện, mặc dù lo đến chết được. Cãi lời Phật Bà lần nữa đi rồi biết! – Vậy mà mấy vết thương trong miệng bé Chi không hành đau đớn


    gì, bé vẫn ăn uống bình thường. Năm mụt u trên đầu lặn xuống rất nhanh, duy có cái gờ ngay chính giữa đầu phải 4 – 5 tháng gì đó mới lặn hẵn! Phật Bà muốn để tôi nhớ cho lâu tội của mình đó mà!

    Chính vì tin tưởng vào phép huyền nhiệm của Phật Bà – và biết chúng tôi đang bị “khảo đảo”, ba bé Chi mới uống rượu say về nổi cơn điên đập nát bàn thờ Phật Bà. Cũng vì vậy mà tôi bỏ chồng, bồng bế các con trở về nhà cũ!...

    * Đầu năm 1996, bé Chi mới tròn 1 năm tuổi, chưa biết nói tiếng nào. Cứ sụp tối là bé đội nón trên đầu đi vòng vòng trong nhà khóc hờ vì nhớ ba - Tôi chỉ biết khóc theo!

    Từ đó bé bệnh liên miên, cứ mỗi lần sốt là lên cơn động kinh, tôi lại sợ đến mất hồn… ba tháng một đợt lên phong ngứa mưng mủ cả hai bên chân (điều lạ là chỉ bị 2 chân – cả người trên không có). Chạy thuốc thế nào cũng phải hơn 2 tháng mới hạ hết, sang tháng thứ tư lại phát lên tiếp, cứ như số đã định sẵn rồi!

    Thường đêm bé ngủ, cả người luôn bị rung lắc nhè nhẹ, y hệt như “co giật nhẹ”, tôi rất sợ con bị di chứng của những cơn động kinh – nhưng nhà lúc ấy nghèo quá, lấy tiền đâu ra để đi bệnh viện chẩn cho con. Chỉ biết cầu khẩn, van vái ơn trên cứu mà thôi: “con giúp người chẳng kể công – cầu xin Trời Phật cứu lấy con của con!”…

    Các bạn thấy đó – trong hoàn cảnh như vậy mà tôi vẫn không từ bỏ được “căn nghiệp” của mình. Người ta tới tôi chữa bệnh cho người hết, rồi con mình bệnh thì ôm


    con đi bệnh viện! Nghiệt ngã và cay đắng biết bao nhiêu… Mỗi lần đưa con đi bác sĩ, tôi len lén né tránh mọi người, không để ai nhìn thấy, hoặc có ai đến nhà thì vội vã giấu túi thuốc đi!.

    * Bé Chi không chịu ăn cá, thịt gì hết… chỉ ưa độc có 1 thứ: nước tương! Có bắt buộc, bé vừa ăn vừa khóc! Người gầy tong teo – đến 20 tháng hãy còn bú, có điều làm tôi khổ sở là bé gần như bú sáng đêm, chỉ ngủ lơ mơ, trở mình lại bú!... Phần tôi thì trắng đêm chỉ lo cho con bú và… thay tả!

    Cứ đầu hôm tôi pha 3 bình sữa lớn (250ml). Nửa đêm dậy súc bình pha thêm 3 bình nữa! Trở mình dậy, không thấy sữa đút vô miệng là bé khóc vang nhà – khóc lớn và dai, không cách nào dỗ được! Hàng xóm mất ngủ, rủa: “con nầy là con quỷ con yêu chứ phải người đâu – con tao mà thế thì tao bóp chết!”

    Sau này tôi mới hiểu từ “con Ông con Bà”. Ông Bà ta xưa nói về những đứa trẻ là phần linh căn, nuôi nó “trần ai” hết biết! Cứ mỗi lần con bệnh là tôi “hồn vía lên mây” liền nhớ lời Phật Bà cứ sợ không giữ được con!

    Thôi, tạm ngừng “tự thán” ở đây! Tôi lại kể tiếp bạn nghe chuyện “liêu trai” vậy nhé! Thực ra từ “liêu trai” tôi nghe có bề chưa ổn, nhưng vì “trình độ có hạn”, biết sao giờ! Các bạn có thể góp ý dùm tôi xem nên dùng từ nào cho thích hợp chăng?!


    LIÊU TRAI (5)


    Đầu năm 1999, trong xấp lịch Phật cuối năm có một ảnh Thích Ca Mâu Ni rất đẹp! Ông ngắm nghía rồi bảo tôi: “Tấm này đẹp, đem ép lamina về treo trong nhà đi!”. Tôi hỏi Ông xem tấm ảnh nầy là ở giai đoạn nào. Ông nói: “lúc vừa mới cắt ái ly gia!”.

    Tôi đem thuê người làm 1 hình ép lamina rất đẹp, về nhà treo ở phía đối diện bàn khách. Vừa ngồi xuống ngắm nghía, “Điển” đã về quay tôi đến chóng mặt như người say rượu, tôi sợ quá bỏ chạy!...

    Ba ngày liền đều như vậy! Tôi chịu hết xiết đóng đinh treo trên đầu bàn khách. Không nhìn thấy ảnh nữa – hết quay!

    Một thời gian sau, Phật Bà về – tôi hỏi: “Phật Bà ơi! Có phải tấm ảnh nầy là lúc mới cắt ái ly gia không?” Phật Bà phì cười: “Ai nói?” – Tôi bảo rằng Ông nói với tôi như vậy. Phật Bà buông một câu: “Thích Ca thành Đạo!” – À, thì ra “Điển Ông” lừa tôi! Nếu biết là ảnh Phật Thích Ca, tôi chẳng dám để trong nhà vì Điển của Phật Ngài mạnh lắm, mỗi lần về chỉ đứng ngoài cửa thôi, tôi đã bị quay đến tối tăm mặt mũi rồi!

    * Vào đầu năm 2003 có người đưa tới cho tôi một phụ nữ bị âm vong nhập. Nguyên cô ấy làm việc trong nhà có 1 người nam vừa mới chết - cậu này vốn bị tật cụp xương sống từ năm 12 tuổi, về sau 25 tuổi lại bị lao phổi. Hận đời, cậu P. chui đầu vào lu nước tự tử!

    Sau khi chết, P. nhập về xác cô N. Mỗi lần về lại


    đánh xác rất dữ, hai ba ngày sau người vẫn còn đau nhừ! Gia đình đã đưa tới cho 1 vị thầy pháp nào đó, ông đòi công 3 triệu, dùng roi dâu đánh tả tơi vẫn không đuổi được âm vong…

    Vừa lên nhà tôi, cậu P. đã nhập vào xác và đánh cô

    N. Có nhìn thấy cảnh ấy mới thấy lạ lùng: cô N tóc dài cột cao lên, lúc ấy tự mình nắm đầu mình mà đánh, mà thoi, mà vả… Đầu tóc xút xổ, hai mắt long lên sòng sọc, răng thì nghiến kèn kẹt. Trông thực kinh khủng!

    Tôi nạt 1 tiếng lớn, N buông tay, ngẩng nhìn! Tôi nói: “Còn đánh xác trần 1 lần nữa, ta đánh cho hồn phách tan thành tro bụi luôn, thử coi! Tại sao lại đánh người ta dữ vậy?”. P. buông gọn lỏn một câu: “Hận đời!”

    Tôi bắt P lấy dây cột, buột tóc lại đàng hoàng, rồi ngồi khuyên can, an ủi và khuyên P vào chùa tu để giải nghiệp dữ, P bằng lòng, thế là xong! Đòn roi chẳng khuất phục được hồn, vài câu nói dịu dàng, phải lý đã làm cho vong hồn cải hối, quay đầu tìm về nẻo Thiện!

    Về sau, mỗi lần cậu P muốn nhập về, lại bảo cô N “đi lên chị Hai nói chuyện chơi!”. Cậu sợ nhập xác ở nơi khác, hồn không tỉnh lại làm điều sai trái…

    Hồn cậu P thiêng lắm! Cậu về cho số đề ai, người ấy đánh là trúng liền! Tôi đã tận mắt chứng kiến, có lần chị em rủ nhau đi chùa, ra khỏi cổng, cô N ghé tai cô bạn

    H.A đi kế bên nói: “Em biết hôm nay chị Bảy kẹt tiền, đánh số 82 đi! Không được nói với ai – mà đánh vài đồng thôi nghe!”. Quả nhiên, chiều hôm đó H.A trúng đề số 82!


    Từ ngày vào Chùa ở, cậu P rất ngoan, dễ thương và vui vẻ. Không còn chửi thề, nói năng ngang ngược như hồi mới nhập xác cô N. P vẫn thường về nhà chơi, mỗi lần như vậy lại rủ cô N lên tôi nhập vào xác, chị em nói chuyện. Phương cho tôi biết mình là phần linh căn cao, phải tội nên bị đày thê thảm vậy đó! Bây giờ nhờ chị Hai khuyên nhủ mới trở lại đường ngay, mai mốt về căn sẽ độ lại cho chị để trả ơn…

    * Có lần, tôi bảo P tìm hiểu xem “Điển Ông” đang ở bên tôi, nguyên gốc là ai? P nói: “Ông muốn em cho nhập xác để nói chuyện cho chị nghe!” – Tôi đồng ý! Thế là Ông nhập xác cô N, xưng mình là 1 vị tu Phật sắp đắc đạo, Ông khuyên tôi phải rèn luyện mình cho giỏi – để Ông an tâm rời tôi mà đi: “Tôi còn việc của tôi, tôi không thể theo trợ cô hoài được”. Hỏi tính danh, Ông nói: “từ từ rồi sẽ biết!”.

    Nói xong, khi cô N ra về, tôi hỏi tại sao Ông lại nói như vậy? Ông bảo: “Nói nghe cho hợp lý vậy mà!”.

    Qua trưa ngày hôm sau, tôi ghé nhà cô N chơi, gặp lúc cô đang đau đầu dữ, nhờ tôi chữa!

    Tôi đưa điện chữa cho cô N vừa xong, cô hỏi tôi: “Sĩ Đạt Ta là ông Thánh của Đạo Phật phải không?” Lúc chị chuyền điện, em nhắm mắt lại bỗng thấy một luồng hào quang tỏa xuống đầu và tiếng nói: “Ta là Quan Âm Bồ Tát, ta chữa bệnh cho con nha!”. Lời chưa dứt, lại thấy 1 đạo hào quang nữa xẹt xuống, rồi nghe tiếng người đàn ông: “Ta là Sĩ Đạt Ta. Để ta chữa bệnh cho cô Ngọc!”.

    Tôi ngạc nhiên: “Em có nhớ lộn không vậy?”. Cô N


    nói: “Không mà! Em cố nhớ cái tên đó để hỏi lại chị”. Cô N là người Đạo Thiên Chúa. Cô không biết tên Sĩ Đạt Ta là ai cũng phải thôi! Còn tôi, tôi biết mà chưa bao giờ dám tin!...

    * Đến ngày rằm tháng bảy năm 2003. Cô Ngọc lên nhà tôi phụ nấu cơm cúng (thường vào các ngày rằm, ngày vía. Chị em chúng tôi tụ lại nấu 3 mâm cơm chay cúng Phật). Cúng xong mời cậu P về nói chuyện chơi và ăn cơm cúng, P nhập về cười ngất nói: “Chị Hai ơi! Em biết “Điển Ông” trong nhà chị là ai rồi. Em là đệ tử ruột của Ông mà không biết mới là kỳ chứ. Ông là Thích Ca Mâu Ni đó”.

    Tôi lại hỏi: “Thế tại sao hơn nửa năm nay em không biết?” – P bảo: “Người ta phép cao muốn khoác áo nào chẳng được! Em theo dõi mãi tới hôm nay mới thấy Ông ra mặt đó!”.

    Việc Ông tự xưng với tôi – tôi chưa hề nói lại với ai, tôi sợ người ta bảo tôi bị “tâm thần hoang tưởng”.

    Lần trước tôi có hỏi Ông tại sao lại xưng mình là Sĩ Đạt Ta – Ông bảo là muốn nhờ miệng người khác nói để cho tôi tin, nhất là 1 người khác Đạo…

    Qua 22 năm, tôi được biết 1 số linh căn của 91 kiếp (phần của người Nam). Trong đó có: Thần Lam Sơn, A Di Đà Phật, Di Lặc Tôn Phật, Thần Nam Tào, Ngọc Đế, Đế Thích, Độc Giác Phật, Tỳ Lô Giá Na Phật… Điển Ông đưa về cho tôi biết và tiếp xúc với mỗi người trong 1 thời gian ngắn.

    Lần lượt – tôi sẽ kể nhân duyên nào tôi được gặp,


    các bạn sẽ biết trong các chương kế tiếp!

    Ngài còn nói một điều: Chúa GiêSu chính là hậu thân của Thích Ca Mâu Ni! Tôi vặn lại Ông: “Chúa GiêSu không có vợ! Còn Ông thì xác nhận Sĩ Đạt Ta với Da Du Đà La là đôi vợ chồng vĩnh kiếp không hề rời nhau. Ông giải thích sao về chuyện này? – Rồi còn nghe kinh giảng: “Thích Ca là đời cuối cùng – Từ ấy đến nay các vị Phật không còn xuống thế nữa – là sao?”. Ông giải thích từng phần một: “Gần như tất cả các giáo phái thuộc về chính giáo đều chung một nguồn cội. Tùy theo phong tục tập quán, quan niệm hay trình độ tri thức mà chọn phần linh căn cho phù hợp mà thôi! Chia rẻ là do lòng dạ của loài người còn đố kỵ, nhỏ nhen, tư lợi và thích xưng hùng xưng bá – Họ tự đưa ra những điều luật riêng, ép các tín đồ phải tuân thủ, rồi gán cho là của các Đấng, khiến sinh lòng tị hiềm, tranh đấu – Tạo ra những cuộc Thánh chiến để tạo quyền lực riêng cho mình. Các Đấng ở trên cao lướt gió nương mây, theo làn thanh khí mà đi về, có thiếu thốn chi điện đài, áo mão?!

    Mộng tranh bá đồ vương là mộng của kẻ tục thế. Nếu anh có ý đó đã chẳng để cho em lủi thủi ở một góc đời như thế này! Chuyện làm cho em trở thành 1 người nổi tiếng, dựng nên 1 nhánh Đạo mới và quy tụ tín đồ là chuyện nhỏ, nhưng chúng ta đâu cần phải làm như vậy. Em tình nguyện xuống Thế để độ đời chứ đâu phải để Hoằng Pháp!”

    Còn về việc Chúa GiêSu không có vợ, ngay điều đó đã là 1 giải thích hợp lý cho em rồi: GiêSu sống có hơn


    ba mươi năm và phải chịu tội nhục hình thế cho loài người! Có vợ để rồi vợ con phải đưa mình lên giàn hỏa sao?

    Việc kinh sách ngày xưa nói: “Các Phật không còn xuống thế nữa” – đó là chuyện của ngày xưa! Bây giờ tình hình cõi Thế đang ở vào giai đoạn hỗn loạn, các thế lực tà giáo phát triển mạnh khống chế, đàn áp và bức hại chúng sinh, trên cao đâu thể làm ngơ! Các Đấng, ai có lòng thảy đều tình nguyện xuống trần để độ đời…

    Mọi việc đều phải theo đúng công pháp, đâu phải muốn làm sao thì làm! Nếu thế thì chúng ta chỉ cần phẩy tay một cái là tạo lập lại trật tự, can gì phải chịu khổ, chịu nhục như em! Các Đấng xuống trần, khoác áo trần – ăn, uống, ngủ nghĩ như người trần thế và lặng lẽ trợ cứu chúng sinh…

    Chỉ cần trong 1 tập thể nhỏ đã có thể tồn tại 1 ma, quỷ, yêu, tinh – hoặc 1 Thánh Thần, Tiên Phật – khoác áo trần như bao nhiêu người bình thường khác, và làm những việc mà họ muốn làm. Chờ đi, rồi phép trên sẽ xoay chuyển cho em được diện kiến nhiều người, để cho em có thêm lòng tin mà vững bước!”.

    Giờ mời bạn trở lại chương “Thực hành cụ thể”. Kẻo không Ơn Trên trách: “Chúng ta xuống trần miền đâu phải để rong chơi!”…


    THỰC HÀNH CỤ THỂ (4)


    Có một người đàn ông bán bánh bò dạo - Ông dừng ở sạp báo mua tờ báo Công An, ho rũ rượi, mồ hôi vã ra, mặt sốt đỏ bừng bừng… Tôi gọi lại hỏi, ông nói: “Tôi bị viêm phế quản mà uống thuốc cả tuần rồi không giảm”.

    Tôi trị bệnh cho Ông, chỉ 4 lần trong 3 ngày là hết hẵn!...

    Chừng hơn 1 năm sau. Người đàn ông ấy đến tìm tôi, nhờ chữa cho bàn tay bị liệt 50% chức năng. Trên gần cổ tay có vết dao chém đã liền sẹo từ lâu, ông nói: “Từ lúc liền sẹo đến giờ cánh tay bị liệt, cầm nắm gì cũng không được - Tôi về Rạch Giá làm ăn hơn 1 năm nay, giờ gặp nạn vầy lại trở lên đây, ở nhờ người bạn để tìm chị, may mà còn gặp!”.

    Tôi nhìn vết thương với khuôn mặt người đàn ông hung dữ bặm trợn – Rõ ràng là đâm chém nhau mà nên chứ chẳng sai! Những vụ như thế nầy mà nhúng tay vào thì “bị đòn chết thôi!”. Lại chắc lưỡi nhủ thầm: “Người ta ở tận miền Tây lên tới đây tìm, tức là ở dưới đó đã không chữa được, mình bỏ đành sao!”… Thế là tôi chữa cho ông có 4 ngày (7 lần điều trị). Bàn tay đã co giãn trở lại bình thường!

    Ngay tối đêm đầu tiên, tôi ngồi quờ tay chạm vào cạnh giường, sưng lên 1 cục u đau điếng. Sáng ngày đã thấy bong gân sưng đỏ lên rồi! Ra sạp báo chữa bệnh cho người đàn ông đó, tôi ngẩn ngơ nhìn vết thương trên cánh


    tay ông ấy rồi nhìn lại dấu đau bong gân trên tay mình: “Phải công nhận đòn thay thế chính xác thực!”.

    Người đàn ông ấy hết bệnh, hí hửng trở về quê, còn tôi bị bong gân đau cả tuần lễ - sự đánh đổi nho nhỏ cho 1 nỗi đau lớn, có thấm thía gì phải không các bạn?!

    Nếu có ai đó bị một bệnh lạ hoặc đau đớn bất thường, là tôi lại phập phồng lo sợ cho chính mình… “Đòn phép” học được “chiêu mới” rồi đây!

    Y như rằng! Ngày mai, ngày mốt thế nào rồi tôi cũng sẽ bị đau “na ná” như vậy - mãi đến giờ tôi mới hiểu: tôi đau giống BN bởi vì tôi chịu thế cho họ đấy thôi!

    * Cô Thủy 20 tuổi – công nhân Satimex: Bị lên cơn suyễn đã 01 tuần, mỗi ngày một nặng hơn, BS cầm cơn không được- Người rũ rượi, chỉ thở lấy hơi lên. Tôi điều trị cho Cô, chỉ 3 ngày là cắt cơn hẵn!

    Một thời gian sau, Ba cô T tới nhờ tôi chữa bệnh suyễn (bị y như con gái của mình). Vốn ông ấy là người “nói trây” có tiếng ở khu nầy, tôi chẳng dám đặt tay chữa bệnh, thoái thác rằng: “Chồng tôi không cho chữa bệnh cho Đàn ông!” Ông Tư đứng lên đi một nước – buông lại một câu: “Thầy Bà gì – chữa bệnh còn kén đàn bà, đàn ông!”…

    Tôi có người anh kết nghĩa – làm giám đốc công ty TNVLXDMN. Năm 1997 ông bị bướu độc bàng quang (5 bướu), lo sợ, tuyệt vọng và xuống tinh thần trầm trọng

    Bệnh viện chuẩn bị mổ và xạ trị!...

    Tôi về – thắp hương lên bàn thờ P.B, xin cứu lấy Anh – P.B về – bảo tôi: “Nếu con chấp nhận đánh đổi, ta


    cho bướu độc thành bướu lành!” – Tôi hứa!

    Sáng hôm sau vừa ngủ dậy, trên mặt tôi (má bên phải) nổi lên 01 cái mụt nhọt. Tôi hốt hoảng – mụt nhọt mà nằm trên mặt thì xấu hổ đến chết mất! Vả lại từ bé đến giờ mình có bị nhọt bao giờ đâu…

    Tôi ngắt một nắm lá bông bụp (còn gọi là bông lồng đèn) vò nát đắp lên rồi đi nằm. Nghỉ trưa 1 giờ đồng hồ, choàng dậy sờ lên má – Ôi trời ơi! Dưới da nó độn lên 01 dề to bằng quả chanh nhỏ cứng ngăn ngắt!

    Tôi thắp hương, xin P.B, Người về nói: “Con đã chấp nhận đánh đổi rồi. Để y như vậy đừng có thuốc men điều trị gì, bao giờ hết thì thôi!” – Cái mụt nhọt không làm đau nhức gì nhiều, chỉ hơi đỏ 1 tí và có đầu miệng, từ đó mủ chảy ra không ngớt! Tôi đứng bán báo mà lúc nào cũng có miếng gòn trong tay – chưa kịp chùi mủ đã chảy thành dòng…

    Cố đưa tay mà nặn, chỉ ra chút máu nhờn nhợt – có gì khác đâu! Thế thì mủ từ đâu chảy ra vậy? Được 1 tháng rưỡi, chịu hết xiết – tôi đi BV Xóm Mới xét nghiệm máu: “Mụn nhọt lành tính!”. BS bảo: “Tiểu phẫu – may thẩm mỹ, không để lại sẹo đâu, yên chí!” xong – uống thêm 01 tuần lễ thuốc kháng sinh…

    Sau 01 tuần, mủ lại tìm đường ra bên trên vết mổ đã liền sẹo – Chịu đựng thêm một tháng rưỡi nữa… nhiều người bảo: “Coi chừng mạch lươn, nó ăn ruồng vô não là tiêu đời!” – Sợ quá, tôi đi tới Trung tâm Ung Bướu xét nghiệm! Lại “Nhọt lành tính” và “Tiểu phẫu, may thẩm mỹ – không để lại sẹo!” Hai BS cùng học có 1 thầy chắc


    – nói 1 câu bài bản y như nhau!

    Lại 01 tuần lễ kháng sinh – Uống vừa hết thuốc, mủ lại len lén bò ra phía dưới hai cái sẹo nhỏ bên trên…

    Đến 3 tháng rưỡi, tôi tìm đến nhà Ông Ba (Thầy Bùa) nhờ khoáng dùm! Ông nhìn tôi một lúc rồi nói: “Cô bị hành căn, tôi không dám chữa đâu!” – Tôi năn nỉ ông thắp hương xin P.B, ông vừa gõ chuông, P.B đã về nhập vào tôi bảo: “Đã bảo đừng chữa mà cứ cãi – ta cho chết luôn!” – Ông Ba năn nỉ xin tha cho tôi, P.B nói: “Ông nặn hết máu ra dùm nó đi thì hết – Đừng khoán, vô ích thôi!” – Ông Ba nặn ra 2 cục gòn lớn đầy máu đen, tịnh không có chút mủ nào! Về nhà hết hẳn!... Ba tháng rưỡi cho 01 cái “mụn nhọt lành tính” – Đến nay, trên má tôi hãy còn 1 vết sẹo nhỏ xíu, dấu vết của 02 lần tiểu phẫu!

    Từ ấy đến giờ, ông anh của tôi vẫn còn sống khỏe mạnh, và không tái phát lại lần nào!

    * Chị Chín (kế bên nhà) bị xe đụng may hơn chục mũi trên bắp vế. Vết thương bị nhiễm trùng, mưng mủ và đau nhức, sờ vào phập phều trông rất sợ! Ấy thế mà tôi chữa có 4 lần chị Chín đã hết hẳn, không còn nhiễm trùng nữa…

    Sau nầy nghĩ lại, tôi biết là Mẹ đã “lót đường” cho tôi khi chuyển về ở nơi chốn lạ, chữa hết bệnh cho bà chủ đất có nghĩa là “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” rồi!

    Từ dạo ấy đến nay (đầu năm 2000) toàn bộ gia đình 16 nhân mạng của chị Chín là bệnh nhân đắc lực nhất của tôi trong xóm! Một hai giờ sáng chẳng kể, mưa bão lạnh


    lùng chẳng chừa – Cứ: “Cô Lan ơi!” là tôi trở dậy khóa cửa chạy sang… Cứ thêm một “sinh linh nhỏ bé” chào đời, tôi có thêm 01 trách nhiệm mới – y hệt như BS chuyên nghiệp hay điểm cấp cứu trong khu phố! Có nạn tai xóm giềng lại dìu nhau tới tìm tôi, kéo theo sau lưng 1 đoàn rồng rắn trẻ con hiếu kỳ…

    Chỗ tôi ở thuộc vùng quê Aáp Đông, xã Thới Tam Thôn – Huyện Hóc Môn! Đời sống người dân còn nghèo khó, thiếu thốn cả về tiện nghi vật chất lẫn vệ sinh - bệnh hoạn cứ như cơm bữa, có khi cả nhà chữa bệnh 4, 5 người…

    Cứ vô đầu xóm hỏi: “Cô Lan chữa bệnh” là ai cũng dẫn tới nhà liền! Chòm xóm người ưa, kẻ ghét! Bởi tính tôi ít nói, tối ngày đóng cửa ở trong nhà, không bước chân sang hàng xóm, người được chữa bệnh thì thương quý tôi lắm: “Vì cổ chữa bệnh không ăn tiền. Có bánh trái gì trong nhà, đem chia hết cho trẻ con hàng xóm.”

    Lâu lâu tôi về dưới nhà xin đồ cũ của các em, cháu đem về. (Các cháu tôi có quần áo bà con bên Mỹ gởi về, mặc chán lại đem cho – đa số còn mới và đẹp!) Tôi đo ni từng đứa bé trong xóm xong may, sửa lại đàng hoàng – giặt tẩy, nước xả thơm lừng đem cho… Trẻ con mỗi đứa 01 ôm, cười vui ríu rít như ngày hội…

    Vậy đó mà tôi bận tíu tít suốt ngày, có khi 1 giờ trưa hay 6, 7 giờ tối chưa có miếng cơm vô bụng, trưa mới đóng cửa định nằm nghỉ 1 chút lại nghe: “Cô Lan ơi! Chữa bệnh.” Một hai đứa bệnh, trẻ kéo nhau đến cả bầy… vào cô Lan chữa bệnh không tốn tiền lại được ăn, đứa nào


    chả thích! Do vậy chỉ cần cô Lan kêu 1 tiếng là trẻ con hàng xóm “dạ” rân!

    Chiều mát, trẻ con tập chạy xe đạp. Cứ nghe “rầm” một tiếng, bé Chi – con tôi lại nói: “Có bệnh nhân nữa rồi!”

    Cô Lan “mát tay” lắm – đau đớn, khóc lóc một hồi đưa vào cô L chữa bệnh, xong cho thêm cái kẹo hay cái bánh, cam đoan… hết đau!

    Chiều tối, người tập trung đến nhà tôi chữa bệnh đông – xe để chật sân nhà! Hàng xóm tụ tập lại nghe ngóng, hỏi nhau: “Nghe nói Cổ chữa bệnh không ăn tiền, mà chữa suốt ngày như vậy rồi lấy gì sống – uống nước lả chắc!” Lại có người bảo: “Nói vậy, chắc sau lưng cũng móc ngoéo người ta đưa tiền cúng lễ nầy, lễ nọ – chứ chẳng lẽ ở không đi làm chuyện thiên hạ!”

    Có nhà khác Đạo, nói dèm: “Bà Thầy lang đó làm thầy Bùa thầy Pháp thì có! Bả thư yếm cái gì trong bụng cô S mà bụng càng ngày càng lớn, đau quằn đau quại, mai mốt nổ cái “bùm” chết ngắt cho coi!” – Con tôi về mách mẹ, buồn hiu: “Mình chữa bệnh không ăn tiền mà sao họ còn nói xấu mình nầy nọ…” Tôi khuyên: “Kệ họ, con à! Họ khác Đạo không có lòng tin, đừng chấp họ làm gì!”

    Vốn cô S do hoàn cảnh gia đình khó khăn, đi “kế hoạch” những 6 lần trong vòng có mấy năm, giờ tử cung biến chứng – bụng dưới cứ sưng to, chướng hơi, như có ai từ trong ấy thổi ra – đau đớn lắm!

    Tôi chữa giảm đau, ngày khác đau tiếp lại vào!


    Bệnh viện cũng thua, biết bao nhiêu tiền thuốc men cũng chẳng tác dụng gì!...

    Bé Dung – con chị Chín – ngộ độc do ngậm phải keo thổi (đồ chơi trẻ con). Hai bên má sưng phồng to lên và khó thở! Tôi cấp cứu sau 20 phút thì hết sưng và hơi thở bình thường trở lại…

    Bé Trúc (con cô Tiến nhà kế bên) 4 tuổi. Bé dậm chân lên con dao để ngửa – đứt sâu và dài, máu ra xối xả! Tôi cầm máu, ngưng sau 5 phút, điều trị thêm 05 ngày chân lành hẳn, không còn đau nhức nữa!

    Bé Nhung (con cô Lý) ở gần nhà tôi lúc nhỏ 3, 4 tuổi thường hay bệnh, vẫn sang tôi chữa luôn! Có lần bé bị làm kinh co giật, hai mắt đứng tròng, sốt cao! Tôi sang cấp cứu – chỉ 2 phút sau thì bé tỉnh, làm khỏe cho bé thêm – chốc lát bé đã ngồi dậy và uống sữa được…

    Bà Nội bé Nhung – bị zonar phần cổ sau lưng, ăn lan rất nhanh và đau nhức, sốt – lại ớn lạnh. Tôi chữa sau 5 ngày thì bà hết hẳn! Có người cháu trai ngoài Bắc vào chơi nghe bà khoe, cậu ấy nói: “Cô ấy chữa bằng gì mà hay vậy? Ngày trước cháu cũng bị giời ăn – nằm viện đúng 1 tháng rưỡi mới khỏi”.

    Phần tôi – tôi chỉ nói với mọi người rằng chữa bằng Đông Y: Bấm huyệt! Tôi khoe nghề nầy do ông Ngoại của tôi truyền lại – Nói cho người ta dễ tin thế thôi! Ông Ngoại tôi mất năm tôi 13 tuổi, truyền cho tôi sao được – Nhưng tôi vẫn tin ông trợ cho tôi cứu người, và có lẽ cũng hãnh diện khi có đứa cháu nối “Nghiệp Nhà!”

    Ông Ngoại tôi xưa là Đông Y Sĩ – người Trung Quốc, dòng họ Tạ ở Mai Hoa Huyện! Sang Việt Nam yêu bà Ngoại rồi ở lại không về… Cô gái quê Cái Bè đẹp, thất học – Lấy chồng được ông Ngoại tôi “Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa” suốt cả một đời…

    Ông tôi tài giỏi mà lại đạo đức nữa! Ông đã từng là Hiệu trưởng trường Tàu, ngày xưa có loại thuốc “Ngoại cảm tán” của nhà thuốc Đồng An Đường, Trung Hòa Đường là do ông Ngoại tôi chế ra, tác dụng hay hơn hết thảy các loại thuốc Bắc đương thời…

    Vào thời Ngô Đình Diệm, có 1 người lính Việt Minh bị đạn xổ ruột, nằm ngay cửa nhà thuốc. Năm giờ sáng ông tôi dậy sớm tập thể dục thấy vậy khiêng vào nhà giấu biến, tự tay mình chế ra thuốc uống, thuốc rửa vết thương rồi may lại. Nghe ông kể: “Ruột người ấy đổ ra ngoài nhiều bằng cả rổ…” Ấy vậy mà ông tôi cứu người lính sống, hai tháng rưỡi sau hoàn toàn khỏe mạnh, ông cho tiền rồi lén đưa xuống tàu về quê!

    Mấy năm sau, người đàn ông ấy vác trên vai 1 bao khoai củ các thứ lên nhà tạ ơn ông: “Con về quê lấy vợ, nghèo quá! Không có gì đáng giá – xin Thầy Bảy nhận cho tấm lòng con”…

    Còn 1 việc lớn nữa về ông tôi – mà tôi phải kể lại cho các bạn nghe: Nguyên ở tại chợ Cao Lãnh, có tiệm thuốc Bắc “Trung Hòa Đường” của ông tôi là lớn nhất – mỗi sáng sớm, bệnh nhân ngồi 2 hàng đợi, dài ra tới ngoài chợ!

    Ông bà đều tốt và thương người, ai nghèo thì bốc thuốc cho không lấy tiền… bà ngoại tôi “một chữ cắn đôi”


    không biết, vậy mà bốc thuốc mát tay không thua gì ông! Ai đến mua thuốc, bà nhớ mài mại lấy ra đưa, đem về uống vô bệnh nào cũng khỏi…

    Ông bà ở căn nhà lầu 4 tầng, đúc tường dầy nửa thước, nhà chắc chắn như 1 lô cốt vậy! Đêm đó hai phe đánh nhau – cả chợ đổ vào nhà thuốc trú nhờ, ông bà chứa cả…

    Hai trái B40 nổ thẳng trong nhà – căn nhà lầu 4 tầng tan gần như thành bình địa! Đến khi ông Quận trưởng (quen với dì tôi) tới, chỉa loa vào nhà: “Ai còn sống chui ra coi!”… Mọi người lóp ngóp chui ra – đếm cả thảy 72 người, không có thương tích gì, ai cũng bảo: “Ông bà Bảy phúc lớn quá, cứu được bao nhiêu là người…” Bù lại – ông bà tôi trở thành người tay trắng, tán gia bại sản luôn!

    Thôi, tạm ngưng ở đây – Tôi kể tiếp về hành trình của Huyền Môn cho các bạn nghe nhé!


    NGUỒN ÂN CỨU MỚI


    Vào cuối năm 1999, tôi có dịp xem số cho một người Đàn ông tên HC. Khi đó Điển báo những điều quan trọng – mà sau nầy ứng chẳng sai! Đại khái: “Căn nhà hiện tại ông đang ở chỉ phát trong vòng 20 năm, sau đó sẽ là 1 quá trình tàn lụi rất nhanh, trở tay không kịp! Trong nhà có một mạch nước ngầm độc hại đi xuyên suốt từ sau ra trước – Tính từ cửa sổ buồng giữa đếm 6 miếng gạch là chỗ mạch nước đi qua – khí độc của nó sẽ triệt chết tất cả những ai là phái nữ ngụ cư ở trong nhà. Đầu tiên sẽ là người cao niên nhất…

    Mọi việc bắt đầu vào năm Ngọ sắp tới đây! Ông HC xác nhận: hiện tại trong nhà ông còn 3 người nữ là Mẹ, Vợ và Con gái út – Mẹ và vợ ông bệnh nặng, con gái út thì xanh xao, nhược sức và hay bị choáng…

    Thế nhưng – đâu dễ gì tin vào 1 lời phán đoán mông lung, ông HC và gia đình vốn trí thức, có danh vọng và địa vị! Để hỗ trợ cho ông làm giảm bớt tác dụng nặng nề của mạch nước ngầm – tôi chỉ ông tìm mua 01 chậu kiểng có lá nhỏ màu xanh thẫm, loại lá dầy – đem về để ngay chỗ có mạch nước ngầm… Quả nhiên 1 thời gian ngắn chậu kiểng chết, lại thay chậu khác!...

    Đến cuối năm 2001 – Mẹ ông phát bệnh nặng! Năm 2002 (ngày cuối tháng Giêng) – Ông điện lên nhờ tôi xuống xem có trợ gì được cho Mẹ ông không: “Mẹ tôi đã hôn mê rồi. BS chẩn không quá 2 giờ trưa nay, bảo lo hậu sự đi là vừa!” – Tôi xuống nhà, thắp hương trên bàn thờ


    PB và Cửu Huyền khấn xin cho Bà “phải ở thì ở nhẹ nhàng, phải đi thì đi không đau đớn!” – Tôi về, quá trưa thì Bà tỉnh lại, kể chuyện: mơ thấy mình đi qua 1 con đường hầm, tới 1 nơi đầy ánh sáng và rất đông người, chợt nghe tiếng con cháu la khóc quá Bà quay trở lại - Hồn nhập vào trong xác và… tỉnh!

    Nhưng vì bệnh quá nặng – Bà chỉ sống thêm được 1 tháng rưỡi – mỗi ngày tôi trợ điện cho Bà qua điện thoại! Cứ hễ Bà nói đau ở đâu, chữa xong Bà nhẹ còn tôi thì đau thế…

    Sau ngày hôm đó – Ông HC lên nhà, PB về bảo: “Mẹ con không sống được bao lâu nữa đâu. Kêu Sư Thầy tới tụng Kinh cho nhẹ mình!” Ông ấy nói: “Khổ nỗi mẹ con không tin gì cả, không chịu con biết làm sao giờ!” – “Không tin ta làm cho tin!”. Ngay đêm đó gần 11 giờ khuya, mẹ HC bảo ông mời Sư đến tụng Kinh và Quy Y cho Bà… Từ đó bà nghe kinh suốt ngày, còn nói với HC: “Nếu biết tu tốt như vầy thì Mẹ tu từ lâu rồi!”. Kinh giảng có câu “chỉ cần niệm Di Đà nhất tâm bất loạn trong chừng một niệm khi chết sẽ vãng sanh Cực Lạc Quốc”. Có phải chăng ngay lúc bên bờ sinh tử Bà đã ngộ được “nhất tâm bất loạn”?!

    Thấy sự mầu nhiệm của Nhà Phật đã chuyển tâm được Mẹ mình, ông HC tin lắm – từ đó hay lên thắp hương lễ hay lạy Phật ở nhà tôi! Một hôm P.B về bảo: “Mẹ con sống không quá 10 ngày nữa, con chuẩn bị hậu sự đi là vừa! Vì tấm lòng hiếu thảo của con không thua gì Mục Kiền Liên, ta ban cho con ân phúc: Nhà Phật sẽ đưa


    Mẹ con đi đầu thai chuyển kiếp ngay tức thì – không phải về trả tội chốn Âm Cung!

    Nhớ lời ta dặn: Mẹ vừa tắt thở – thay vì ngồi đó khóc thì con thắp đèn sáng lên tất cả các Bàn thờ, đốt hương trầm xin đích danh ta: Quán Thế Âm Bồ Tát – xong rồi lấy tấm hình P.B đang thờ đem xuống cho Mẹ con ôm vào trước ngực! Con ngồi ôm tay Mẹ trong vòng 10 phút, xong xịt dầu thơm tẩy trần trả về chỗ cũ, từ đó trở đi hành lễ theo Đạo Pháp, cúng chay không cúng mặn! Và nhớ phép chỉ thiêng trong vòng 10 phút đầu tiên sau khi chết!”

    Quả nhiên chỉ 8 ngày sau mẹ ông HC chết! Ông làm y như lời dặn của P.B. đám tang nhẹ nhàng, trang trọng, cúng chay – không cúng mặn…

    Vốn ông HC nhà chỉ có 1 mẹ 1 con, cha chết khi ông còn nhỏ, mẹ thủ tiết thờ chồng nuôi con từ thuở đôi mươi – Nay 82 tuổi thì bà mất! Tình mẹ con gắn bó lắm – Lên nhà tôi ngồi chơi chốc lát nghe bồn chồn, nóng ruột là ông đứng lên ra về: “Mẹ tôi nhắc tôi”… Chuyện vệ sinh và chăm chút cho mẹ, ông tự tay làm không để cho ai!

    Cúng xong thất tuần (49 ngày) cho Mẹ, ông HC mua hoa lên thắp hương Phật tại nhà tôi - Ông còn đang đứng thì tôi thấy Bà (mẹ của ông) về đứng sau lưng nhìn qua vai ông ra dấu muốn tiếp xúc. Tôi nói – HC đứng dậy bỏ về, có lẽ do đột ngột chưa chuẩn bị tâm lý, có khi do không tin lời tôi, sợ tôi giả để lừa ông!

    Đêm đó – âm vong của mẹ HC ngồi cả đêm trên ghế trong phòng khách nhà tôi – Còn tôi thì sợ đến… cả


    đêm không nhắm mắt! Sáng sớm, tôi điện cho HC bảo lên gấp!

    Mẹ HC về tiếp xúc với con, ông hỏi: “Mẹ đầu thai về đâu – nói cho con biết với!” - : “Mẹ không có đầu thai – Mẹ đầu sanh về cõi Vô Vi! Cõi Vô Vi là cõi của nhà Phật đó con!” Rồi bà kể tiếp: “Nguyên căn của Mẹ là Diêu Trì Phật Mẫu Tây Cung. Do có tội vì hành xử sai việc mà bị bắt đi đày 570 năm! Lẽ ra phải còn 2 kiếp trần nữa mới mãn hạn. Nay vì nhờ nhà Phật trợ cứu Mẹ mới được trở về căn!”

    Quay lại tôi, bà nói: “Nhờ cô Lan cầu xin mà ta mới được nhà Phật giúp. Ta nguyền rằng: Ngày nào cô Lan còn sống trên cõi đời nầy, hễ kêu một tiếng là Diêu Trì Ta có mặt trợ cứu!”

    Rồi bà ra lệnh cho HC xây mộ theo ý Bà: Sơn màu xanh ngọc, bia màu xanh dương – chữ đỏ. Bên trên làm một vòm tròn tượng trưng cho cõi Vô Vi…

    Bà đưa về hai người, giới thiệu: “Đây là Hoàng Mẫu – em Ta! Còn đây là Cửu Thiên Huyền Nữ, Đệ tử của Ta!

    Hoàng Mẫu mặc áo Lụa vàng, Cửu Thiên áo lụa trắng, còn Mẹ Diêu Trì mặc áo màu xanh da trời!

    Vốn tôi là người Đạo Phật, lúc đó chỉ nhớ mang máng: “Tây Vương Mẫu! Chuyện Tề Thiên Đại Thánh trộm Đào Tiên…” Mẹ Diêu Trì còn nói: “Khi mặt trời xuống là cung điện phía Tây hiển hiện” Mẹ bảo tôi: “Phật Mẫu đáo gia ở đâu thì nơi đó phát – Ta sẽ không để cho con phải khổ như thế này nữa đâu! Từ nay trở đi ta


    nắm tay con độ đời – Từ từ rồi ta chuyển ngân cho con có tiền độ nhật!”

    Tôi xin: “Nếu thế thì xin Mẹ cho phép con mỗi năm lấy ngày giỗ Mẹ HC làm ngày vía an vị Mẹ Diêu Trì tại nhà con!” – Mẹ bằng lòng! Từ đó đến nay, HC giỗ Mẹ ngày 11 tháng 3 – còn tôi cúng vía Mẹ ngày 12 tháng ba hằng năm, đã 6 năm rồi…

    Đây có lẽ cũng là sự xoay chuyển của các Đấng để giúp cho tôi có thêm năng lực mà độ đời, giống như lời

    P.B Quán Âm đã nói: “Ta cho con gà đẻ trứng là ta đã lót ổ sẵn hết rồi!”

    Lẽ ra chúng ta chuyển sang một đề chương khác, nhưng chỉ e mất đi phần mạch lạc của câu chuyện – đang bắt đầu minh chứng cho sự huyền nhiệm hiện hữu từng ngày… không phải ở chỗ tôi mà ở nhà của HC!

    Cũng phải thôi, các bạn nhỉ! Một dòng tộc mà tổ tiên bao đời thai sinh và dung dưỡng phần trần xác của Mẹ, đương nhiên xứng đáng để được báo đền!

    Có điều Mẹ đã dặn dò HC: “Chỉ ở nhà cô Lan mẹ mới biết con – và là mẹ của con, chỗ khác thì không – Khi đã trở về ngôi là phải đoạn căn trần, mẹ không còn liên can tới con, không biết con là con của mẹ nữa!” giờ

    tôi xin phép liệt kê một cách có trật tự từng việc một, để tiện bề theo dõi cho bạn đọc. Chúng ta chuyển sang đề mục “Thực hành cụ thể!”


    THỰC HÀNH CỤ THỂ (5)


    Việc quan trọng đầu tiên Mẹ bắt HC phải làm: “Ngay lập tức xoay chuyển nhà cửa – Bán và mua nhà mới, nếu không sẽ không giữ được sinh mệnh của vợ con!” HC nói: “Vợ con không chịu, bà ấy nói nhà đang ở bao nhiêu năm làm ăn khấm khá không dời đi đâu hết!” – “Không chịu ta làm cho chịu…”

    Thế là vợ HC đêm đó ngủ mơ thấy mẹ chồng về bắt dọn nhà đi chỗ khác ở – Bà cãi lại mẹ chồng, bị mẹ mắng!...

    Sáng hôm sau hai vợ chồng bắt đầu đi tìm mua nhà và đăng báo bán nhà cũ! Đôi ba hôm – HC lại lên nhà tôi một lần, mang theo một lô những địa chỉ nhà bán. Tôi xin Mẹ về cho ý kiến! Mẹ nhập vào tôi – đưa bàn tay rà chầm chậm lên từng địa chỉ một, hai mắt lúc đó nhắm nghiền – xong Mẹ phán: “Căn nhà nầy xuống móng, nứt tường! Căn nầy nhà tranh chấp, không làm giấy được – Căn nầy có người tự tử chết trong nhà…” Vài đợt như vậy, Mẹ mới chỉ vào căn nhà địa chỉ :… : “Nhà nầy mua được! Giấy tờ có trục trặc chút xíu rồi cũng thông…”

    Từ ngày giờ đi coi nhà đến thời gian đặt cọc, giao tiền… Nhất nhất đều do Mẹ chọn! Mọi việc như ý cả! – Chưa bán được nhà cũ, mua nhà mới xoay tiền không kịp, ông HC than với Mẹ, Mẹ bảo: “Về suy nghĩ lại. Chọn người quen ở hướng Tây – Chiều mai 2 giờ đi hỏi tiền, Mẹ cho người xuất ngân cho con vay!” – Quả nhiên, chiều hôm sau HC đến nhờ một người quen làm ở Ngân


    hàng về phía Tây, mượn ngay được 1 số tiền lớn…

    Sau, vì tiền góp Ngân hàng mỗi tháng nhiều mà nhà cũ vẫn chưa bán được – HC đâm lo, than van với Mẹ! Mẹ Diêu Trì về, lại nói: “Để ta cho trẻ nó kiếm tiền về phụ cho con!” – Thế là cậu con trai thứ vừa tốt nghiệp Đại học nhận ngay được 1 hợp đồng thiết kế bản vẽ trị giá 40 triệu đồng. Cô con gái út thực hiện công trình phụ được bồi dưỡng 12 triệu… Ba tháng sau do quy hoạch nhà nước, cậu con thứ HC vẽ lại công trình cũ – lại được 40 triệu đồng!

    Đăng báo đã lâu mà chưa bán được nhà, HC lại lên xin Mẹ! Mẹ Diêu Trì về nói: “Ráng đợi xong giỗ mẹ rồi bán, kẻo bà con xóm giềng họ quở!”. Ông HC vẫn còn lo, Mẹ nói “Con tin 10 con được 10 – con tin 3 sẽ chỉ được 3” – HC hoảng hồn: “Dạ, con tin – con tin”… Nếu tôi nhớ không lầm thì sau ngày giỗ đầu của Mẹ có mấy hôm là ông HC bán được nhà!

    Các bạn thấy mẹ Diêu Trì do tính kiên quyết của mình, đã xoay chuyển mệnh số cho cả 01 gia đình hay chưa!?

    Đến tận giờ phút nầy, những đứa cháu của Mẹ chắc vẫn nghĩ số tiền lớn vào trong tay là do tài lực của chính mình, nào biết đâu từ sự “xuất ngân, ban lộc” của mẹ DT…

    Ông HC mua được đất, cất được nhà – tôi “chịu đòn” 1 tháng lẻ 5 ngày. Khi ông bán nhà cũ, tôi nằm 24 ngày chẵn! Sở dĩ tôi nhớ như in bởi vì những trận “hành căn” đến và đi đột ngột, tôi nhận biết chính xác đến từng


    giờ, từng phút… Chưa có đợt nào tôi đau nhiều và lại đau dai dẳng đến như vậy – Mái tóc dài nằm một chỗ mãi dính bết lại với nhau chải không nổi nữa, tôi nhờ người chở đi uốn ngắn cho nhẹ đầu, lại nằm chịu tiếp!

    Tôi trích lại đây 1 đoạn văn tôi viết trong cơn đau, các bạn đọc nhé!

    … “Cơn đau trải dài từ chót cổ xuống thắt lưng, xuống hai đầu gối, hai khoeo chân – và tận cùng ở khớp ngón chân cái! Chừng như ở đâu có xương thịt ở đó có cái đau, chừng như máu đang ngừng lưu thông trong cơ thể. Cả một thể xác to lớn kiệt quệ không ngừng rên rỉ, quằn quại! Mỗi bước đi là một chuyển dời đau đớn, mỗi một thời khắc sống là một đọa đày…

    Đứng lên, ngồi xuống, bước tới, quay lui… mọi day trở chuyển vận đều như có cơn đau đang xé lên đâu đó trong người. Lặng nghe ngóng, theo dõi… mãi chẳng biết nó đến tự bao giờ và chừng nào thì nó sẽ ra đi!...”

    Thường khi, tôi làm nhiều việc khác nhau trong mỗi ngày, nên khi “bị đòn” lắm lúc cũng chẳng biết bị từ vụ việc nào nữa! Đợt nầy vì đau quá lâu tôi cứ nằm khấn Mẹ: “Xin cho con biết tại sao con phải chịu đau đớn như thế nầy!” – Và Điển báo cho tôi 01 giấc mơ:

    * Tôi thấy mình đang đau và đang nằm một chỗ y như thế này! Một buổi trưa độ 2, 3 giờ – ông HC lên tới thấy tôi nhịn đói nằm một chỗ bèn xốc dậy bảo ngồi lên xe ông chở đi kiếm gì ăn… xe vừa chạy, sực nhớ mình đang mặc bộ đồ lửng ở nhà, tôi la lên – bảo ông quay lại để kiếm cái áo khoác!


    Xe vừa dừng lại, bỗng nhiên thấy có 1 toán người đuổi đánh ông HC, mà tôi thì đau quá chỉ đứng chịu trận đó, chẳng làm gì được! Nhìn qua bên kia đường, tôi thấy có 1 đứa bé đang ngồi, thấy tôi thì che mặt lại trốn… Vía tôi biết đứa bé cùng phe với bọn người kia, bèn bước tới dỗ ngọt: “Con nhà ai mà sao ngồi một mình, mặt mũi tèm lem vầy nè! Đưa cô lau sạch cho! Con ngồi làm chi ở đây!” – “Tui chạy theo coi người ta đánh ông kia kìa!”. Hỏi “Tại sao đánh?” – Con bé đáp: “Họ đánh không cho ổng ở dưới, ổng lên trên miệt nầy mua đất cất nhà, họ chạy theo lên đây đánh nữa!” - “Ai đánh?” – Đáp: “Phe ông Tòng chứ ai!”… Có thế rồi tôi giật mình tỉnh dậy! Chợt nhớ: ông Tòng là người bán rau cải dưới chợ Hiệp Thành vừa chết vì bệnh ung thư hơn chục ngày… Âm phần phá rồi chứ chẳng sai! Vậy là tôi biết đợt nầy đau do đâu - Cố chịu đựng thôi, ơn Mẹ bề trên cứu bao người, mình đau một chút để “trả nghĩa” cho Mẹ, cố lên!...

    Con gái út của ông HC dạy trường Đại học. Một buổi chiều bị ai đó lấy mất túi xách đang để ở văn phòng. Nghe nói trong đó có 1 số tiền cùng với hầu hết giấy tờ: hộ khẩu, CMND, bằng lái, bằng giáo sư… ông hớt hải chạy lên bảo “Xin Mẹ tôi về cứu đi, mất cả rồi!” – Mẹ về hỏi: “Trong số đó giấy tờ nào quan trọng nhất” Ông đáp: “Bằng Đại Học - vì không cấp phó bản” Mẹ nói: “Được rồi, về đi – để Mẹ lo.”

    Hơn 7 giờ tối – Tôi đang ngồi xem ti vi, Mẹ DT về bảo: “Có rồi đó con!” – “Có gì vậy Mẹ” Mẹ nói: “Bằng Đại Học”.


    Sáng hôm sau, quả nhiên ông HC điện lên bảo: “Có ai đó đã tuồn Bằng Đại Học qua khe cửa văn phòng trường…”

    Các bạn có thấy chuyện hy hữu “có một không hai” chưa? Nếu ai đó có lòng, sao không ném trả toàn bộ giấy tờ?!

    Mẹ giải thích: “Định mệnh là vậy, mình cũng phải chịu mất mát một chút cho trọn số, con à!”

    Lại có lần tôi mơ thấy đang đạp xe trên đường thì gặp ông HC – ông cũng đi 1 chiếc xe đạp, có giấy tờ gì đó nằm trong giỏ xe phía trước! Vừa gật đầu chào tôi – tới ngã rẽ ông gặp 1 người bạn, bỏ xe bên đường sang chào hỏi tay mắt mặt mừng… Khi quay trở lại thì mất xe! Tôi và ông đi tìm mãi mà không thấy – ông HC bảo: “Thôi chết, mất bản vẽ của thằng nhỏ đền công trình thì tiêu luôn!” – Đến đó, tôi giật mình tỉnh giấc…

    Ứng biết sắp có điềm chẳng lành, ông HC và tôi lại cầu Mẹ cứu! Ba ngày sau, chú mèo nhảy lên bàn làm việc, “ị” tèm lem lên bản vẽ công trình của cậu kỹ sư!

    Thực may – mới chỉ là bản phác thảo!

    Trong tay tôi có hầu hết hình ảnh của gia đình ông HC! Lòng tin vào Mẹ, hễ ai có việc gì là ông lại xin Mẹ về cứu. Ai bệnh hoạn thì tôi trợ (gián tiếp qua hình!).

    Nguyên vợ của HC bị bệnh tiểu đường đã lâu năm, thường xuyên biến chứng – mỗi lần như vậy tôi vừa cầu xin vừa chữa bằng nhân điện cho đến khi khỏi thì thôi – Và công lao đó thuộc về… bác sĩ và bệnh viện!

    Có lần tôi xin Thầy Hải Thượng về, thầy cho 1 loại


    thuốc để trung hòa lượng đường trong cơ thể: “Dây đậu dại” – Loại dây leo thường mọc theo hàng rào, lá như lá đậu mà nhỏ hơn, trái cũng nhỏ – trong có hạt như hạt đậu bé xíu xiu!

    Tội nghiệp cho ông lão ngoài 60 tuổi, vì thương vợ phải lần mò đi tìm hái lá thuốc, tôi dắt ông vào tận hang cùng ngõ hẹp… Hai người vất vả lắm mới tìm được 01 bao thuốc lá, chừng nửa tháng lại đi một lần!

    Dây đậu dại không kỵ với thuốc tây, chỉ nấu uống thế nước làm cho cơ thể dịu mát, an thần, hạn chế biến chứng của bệnh! Nghe đâu vợ ông HC còn đóng gói gởi cả về ngoài quê cho bà con nữa…

    Sau, thấy đi tìm thuốc cực quá, tôi lấy giống đem về gieo trồng trên hàng rào quanh nhà, để ông chỉ việc hái đem về cho đỡ tốn công sức!

    Có lần, bà Cửu Thiên về bảo với ông HC “Nội nhật ngày mai – ngày mười bốn, con sẽ bị tai nạn xe cộ, có thể gãy chân! Để cứu con ta dặn: Cả ngày 14 từ sáng sớm đến 6 giờ tối con không được đi ra ngoài bằng bất cứ phương tiện gì. Qua 6 giờ chiều thì nạn dứt! Tuy nhiên ta cũng nhắc con nhớ cho kỹ – Số mệnh sẽ xoay chuyển bằng mọi cách để thực hiện án lệnh, nếu có ai đó tìm kiếm hay kêu gọi con ra ngoài vì bất cứ lý do gì, con đều phải từ chối! Ta sẽ cho người bảo trợ”…

    HC làm y lời dặn – cả ngày 14 ấy chỉ ở nhà, nằm đọc sách và làm việc vặt, nhất định không đi ra ngoài! Đến hơn 5 giờ chiều, ông đang nằm lơ mơ trên võng, thoạt nhìn vào bức tường ở phía đối diện thấy mường


    tượng như hình 1 con cọp hay sư tử gì đó – thật to, lấp loáng như vẽ bằng ánh sáng - : “Tôi biết rằng Ơn trên đã cứu tôi!” Ông nói!

    Đến ngày rằm tháng 10 năm 2002 – ông HC lên thắp hương cho Phật – bà Cửu Thiên về nói: “Ở dưới Châu Đốc Hai có điện thờ Mẹ Diêu Trì. Hôm nay ngày Vía lớn – con đưa cô Lan xuống đó lạy Mẹ đi!”

    Ông HC chở tôi đi Điện Bà Châu Đốc Hai ở Cần Giờ! Ngày rằm lớn người đến dâng hương đông đến nỗi chen chân không lọt… chúng tôi tìm tới chỗ thờ Mẹ Diêu Trì – một nơi đẹp đẽ và trang trọng! Hình tượng Mẹ Diêu Trì đứng giữa phòng, thật cao lớn, oai nghi – Aùo Mão Cân đai, tràng phang bảo cái đủ đầy… Mẹ Diêu Trì mặc áo lễ bằng gấm đồng tiền màu đen! Chúng tôi hỏi Bà Từ ở đó: “Điện nầy thờ ai vậy bà?” - : “Không biết sao – Diêu Trì Địa Mẫu, Mẹ hóa sanh toàn cõi địa cầu đó!” – Tôi sững sờ, cả HC cũng vậy…

    Ra khỏi Điện Bà, thay vì về nhà mình, HC nhất định trở lên nhà tôi: “Cô xin Mẹ về đi, tôi muốn gặp Mẹ!”…

    Bà Cửu Thiên vào nhà trước, hỏi chúng tôi” “Sao – có thấy Mẹ Diêu Trì ở đó không con?” Tôi trả lời: “Dạ có

    – mà sao mặc áo màu đen, Mẹ về đây con thấy mặc áo xanh không mà!” – Bà CT nhích qua một bên: “Có giống người nầy không con?”. Lúc đó, Mẹ bước vào, mặc chiếc áo màu đen bằng gấm đồng tiền y như tôi đã nhìn thấy ở Châu Đốc Hai!

    Ông HC hỏi: “Tại sao Mẹ nói là Phật Mẫu Tây


    Cung, dưới đó lại là Địa Mẫu toàn cõi?” Bà CT giải thích: “Tùy theo hành xứ, trú xứ, trụ xứ mà có tên gọi khác nhau – chung quy cũng chỉ là một mà thôi”. HC lại hỏi: “Con có duyên gì mà được phúc đức lớn như vậy?” Mẹ Diêu Trì nói: “Đâu phải chỉ có Thích Ca Mâu Ni xuất thân từ kẻ quyền quý – Quán Aâm Thị Kính xuất thân nhà bình dân đấy thôi!”

    Rồi Mẹ bảo tôi thỉnh tượng Mẹ về thờ, để Mẹ phò trợ cho! Người đã bảo vài lần rồi, song tôi cứ lần khân, chối quanh mãi – Mới có 1 Điển nhà Phật tôi đã sống giở chết giở thế nầy rồi, thêm Điển lạ nữa… chắc tiêu luôn quá!

    Tôi cứ từ chối, lấy lý do: “Con còn Điển chủ quản, để con xin phép đã, nếu cho phép thì con mới thờ – Bằng không bị đòn chết!” Nay Mẹ nói: “Ta đã hỏi qua PB rồi!”

    Tôi biết nói sao giờ: “Nếu vậy con xin phép Mẹ cho thỉnh ảnh bà Cửu Thiên về thờ!” Mẹ lại nói: “Thờ Phật còn chưa nghiêm minh, thờ Cửu Thiên ba ngày vía trong tháng mà không đủ lễ là bị Điển phạt chết đó - Con thờ Ta, rồi vui thắp nhang buồn thì nghỉ ta chẳng trách con đâu!” Mẹ nói đến vậy, tôi còn từ chối đàng nào?!

    Mẹ lại bảo ông HC: “Mẹ thấy bên kia đường người ta có bày bán tượng Diêu Trì, con ra đó thỉnh 01 cái đem về đây!” – Rồi chính tay Mẹ bày lên bàn thờ Phật và thắp nhang, không cần lộc lễ thượng trang gì cả!!

    Xưa nay, tôi vốn là người đạo Phật, không biết chút gì về Địa Tiên – Mẹ nói tới đâu thì tôi nghe và biết đến đó vậy thôi! Do chuyện nầy mà ông HC nảy ra ý cúng


    tặng cho tôi hai tượng Mẹ Diêu Trì và Quán Aâm cao 1m60 – to và đẹp như người thật! Nói là để trả nghĩa tôi đã giúp ông mua bán được nhà đất, xoay chuyển cho mọi sự hanh thông…

    Tôi “giở khóc giở cười” khi người ta chở đến nhà, và tôi chỉ có ký nhận! Hai tượng Mẹ to lớn, mỗi tượng phải đến 4 người khiêng, tôi biết để vào đâu? Vả lại – xưa nay tôi có tu hành, trì niệm cho có bài bản bao giờ!...

    Thế là phải lo tiền cất 1 cái am nhỏ thờ tượng Mẹ – Về sau Am tự thiêng lắm, ai khổ nạn tới xin là Mẹ cứu!

    * Kể từ ngày Điển Mẹ Diêu Trì về ngự, người tìm đến ngày một nhiều! Đủ mọi nạn khổ trên đời tôi đều phải đảm đương – Nhưng chuyện nầy tôi xin kể bạn nghe vào chương sau, giờ chúng ta trở lại để biết thêm về sự huyền nhiệm của Mẹ Diệu Trì…

    Hai tượng Mẹ đem về chưa có chỗ để, còn nằm nguyên trong bọc nilon – mấy ngày sau tôi phát hiện tượng Mẹ DT hơi nước bốc ra mờ mịt cả vỏ bao, kiểm tra lại thấy ngón trỏ của bàn tay phép Mẹ bị bầm giập, lòng tôi đau xót quá!

    Điềm ứng mãi về sau tôi nghiệm lại mới biết, Mẹ về với tôi vui ít buồn nhiều! Mẹ nhìn tôi đau đớn đến rơi nước mắt mà không cứu được, chỉ than 1 câu: “Mẹ ruột của con không cho – Ta mẹ đỡ đầu cho con làm sao được!” – Còn nữa… mọi hoạn hạn dưới nhà ông HC, ông đều lên đây cầu cứu Mẹ, nghiệp trần của gia đình ông – Mẹ chống đỡ cũng mòn hơi!

    Nhân đây, tôi viết 01 bài văn – xin chép ra đây mời


    bạn đọc – Để thấm thía hơn nữa tấm lòng hy sinh của Các Đấng với nhân loài…


    MẸ TỪ ÂN


    Đàng sau sự đẹp đẽ uy nghi là nỗi đau đời rất thực. Sau dáng vẻ điềm nhiên là sóng gió dậy lòng! Sự đường bệ cho bao người thần phục - Mẹ là Bậc Mẫu Nghi lập Địa, tạo Thiên…

    Chỉ con biết Mẹ ơi – còn một trái tim riêng: nhân hậu, bao dung và dễ dàng rung động. Biết khóc cười, biết yêu thương và bi hận. Đau đến cháy lòng mà chẳng thể nói cùng ai!...

    Khi con buồn Mẹ an ủi bên tai, khi con khóc có Mẹ lau dòng lệ – Những nỗi niềm giấu trong lòng của Mẹ ai sớt chia – Mẹ chịu lấy riêng mình! Sao trời cứ mưa, mưa mãi không ngưng. Cho lòng Mẹ nỗi buồn lo không dứt… Mẹ về với chúng con những ngày bão rớt – Aùo Mẹ ướt rồi, thương biết mấy Mẹ hiền ơi!!

    Nhân thế khổ đau tìm đến dưới chân Người, Mẹ bước xuống đài cao dìu con đứng dậy. Bàn tay phép vung lên Mẹ cất đi niềm khổ lụy – Ban cho con sự bằng an, lòng Mẹ vô cùng!

    Quỳ dưới chân Người, con lạy Mẹ Từ Aân! Mẹ vén mây mù cho nắng hồng soi tỏ. Để đời con một ngaøy coù Meï, boû ñöôøng Meâ theo chaân Meï ñoä Ñôøi…


    21.06.2003


    Meï giaûi thích: “Moãi con ngöôøi coù 3 phaàn hoàn: linh hồn vĩnh cửu, hồn hiện kiếp và linh căn (hoặc âm căn). Linh hồn vĩnh cửu mang dấu ấn của họa phúc tiền kiếp vào hiện kiếp, linh hồn hiện kiếp thụ lãnh – tạo tác: trừ cộng, nhân chia… phần Linh căn chỉ có tác động rất ít hoặc tác động gián tiếp mà thôi! Trừ khi Linh căn nhập xác trần để hành Đạo, độ Đời…”

    Chính vì vậy, khi phần Linh căn có tội, bị đi đày thì chỉ một phần hồn vĩnh cửu đi. Còn Linh căn vẫn ở lại Ngôi Trời! Mẹ nói: “Ta đau lòng lắm vì biết rằng một phần của mình luân lạc đâu đó dưới kia, tâm trí chẳng phút nào yên!...”

    Vậy mà – có ai đó đến bên chân Mẹ kêu khóc, Mẹ vẫn không đành lòng bỏ! Biết rằng họ có tội và đang chịu trừng phạt, nhưng thấy khổ nạn bỏ sao đành.. Thế là Mẹ tìm hết cách này đến cách khác khéo léo xoay chuyển sao cho phù hợp, để cứu được người thoát khỏi nạn tai!

    Vừa cứu vừa răn – Mẹ nói: “Ta không có gì để cho không hết! Con đến kêu khóc, ta xét xem từ nay về hậu con còn phúc lộc hay không, nếu còn ta chuyển qua để cứu. Mai nầy không còn phúc lộc có than mấy ta cũng thua!” Rồi Mẹ kiên nhẫn ngồi lại khuyên răn, giảng đạo lý cho những ai có lòng nghe. Từ bàn tay Mẹ, bao nhiêu người đến nhà tôi – về sau nhiều ít đều có chuyển tâm, biết ăn chay, niệm Phật, làm lành – lánh dữ!

    Tôi vốn là người Đạo Phật – nên Mẹ về chỉ giảng theo Phật Đạo, không bao giờ đá động đến Địa Tiên, không nói về mình – chỉ cốt giúp tôi độ đời cho trọn


    nghĩa…

    Mẹ giải thích: “Nhà Phật chính độ phần hồn, Địa Mẫu lại chánh độ phần xác”. Chính vì vậy Mẹ Quan Âm khó khăn, nghiêm khắc hơn Mẹ Diêu Trì – Bởi rèn tâm khó hơn luyện xác! Ơn trên thương tôi một lòng một dạ cứu người, không màng bổng lộc nên cho cả hai Điển chủ lực: trợ xác và hồn!!

    Cũng chính vì điều nầy mà nhiều người cho rằng tôi tà mỵ, lại háo danh! Cứ tự xưng mình là phần chân Điển cao nhất - : “Bao nhiêu Điển cao về nó cả rồi còn gì!”

    Căn trên nhập vào tôi và tự xưng, tôi nào dám cản ngăn – Bảo rằng không phải thì cũng chẳng lấy gì xác định! Rốt cuộc rồi bị mang tiếng oan, không biết phân giải thế nào…

    Sáu năm trở lại đây – từ khi có Mẹ Diêu Trì, Mẹ Quan Âm ít về, chuyện hành xử giao phần Mẹ Diêu Trì chỉ khi nào ngày rằm, ngày lễ Phật hoặc chuyện hành xử liên quan đến các phần Linh căn nhà Phật PB mới về giải quyết…

    Giờ tạm ngưng ở đây, chúng ta chuyển sang đề mục khác!


    LIÊU TRAI (6)


    Tôi kể tiếp cho các bạn nghe về Duyên phúc cho tôi được diện kiến những phần Linh căn khác.

    Năm 1999 – có lần Điển ông đi mất hơn nữa tháng không về. Đêm ngủ có Huyền Nữ về canh nhà, còn ban ngày thì lạnh ngắt!... Tôi đã quen với việc lầm bầm, lẩm bẩm với ông – nay nói ra một câu không nghe tiếng ai trả lời, tôi phát điên lên được!

    Một buổi chiều nọ vào khoảng 3, 4 giờ tôi đang ngồi trong sạp báo sực thấy 1 người ăn mặc Aâu phục, mang giầy Tây bước vào – tưởng là Điển ông, vía tôi thấy mình xốc tới nắm hai tay vừa rung, lắc lại vừa khóc kể lu loa… Tôi trách ông bỏ tôi đi mất, để tôi một mình chịu đau đớn, tật bệnh triền miên như vậy!

    Người đàn ông đứng chết lặng, hai tay buông thỏng, ngượng ngập! Tôi giật mình bước ra xa, lí nhí xin lỗi… Điển xưng mình là Đế Thích, một trong những phần Linh căn tiền kiếp của Ngài Thích Ca, nay về thăm cho tôi được biết mặt!

    Ngài Đế Thích cao ráo, rắn rỏi, da ngâm đen, bàn tay với những ngón thanh mảnh thật dài và đẹp! Ông viết chữ đều tăm tắp, không phóng bút – một nét chữ đẹp kiểu mẫu…

    Tôi quên chưa kể cho các bạn nghe một điều kỳ diệu nữa: nguyên tôi có tật bong gân mãn tính ở ngón tay cái, cầm bút viết chút xíu là bắt đầu đau và chữ viết ra nét “bổ nghiêng, bổ ngửa”. Những lúc ấy tôi cầu cứu Điển ông – Người cầm tay tôi viết chẳng nói gì!

    Ngắm nghía nét chữ một chốc, tôi biết ngay ai vừa cầm tay tôi viết: Nét tròn trịa, chân phương là của PB; nét cứng cỏi mà đẹp, đều tăm tắp là của Ngài Đế Thích, nét đẹp phăng và tài hoa là của “Điển ông” – còn nét nhỏ xíu mà thanh tao là của Mẹ Diệu Thiện! Thần Lam Sơn là người có nét chữ phóng bút, lớn và táo bạo nhất – đến nỗi tôi đâm quen, về sau viết chữ lớn và rộng rãi như chữ đàn ông!

    Thỉnh thoảng những phần Linh căn khác của ông lại về thăm tôi, ở lại trong 1 thời gian ngắn (khi ông bận vào các ngày lễ lớn như những ngày rằm, ngày vía…). Họ lui tới và trở lại trong nhà tôi y như một người bạn, người anh bà con: tế nhị và khách sáo!...

    Tôi quen giọng nói của từng người một: giọng lớn tiếng sang sảng như chuông đồng là của Ngài Di Đà. Giọng “hơi liệt liệt” là của Thần Lam Sơn! Giọng truyền cảm là của “Điển ông” – Giọng ngài Đế Thích thì dịu và nhẹ… Giọng nói của Ngài Di Lặc thì phóng khoáng, hồ hởi – Và giọng của Thần Nam Tàu thì cứng ngắt, khô khan… Riêng tiếng của Ngọc Đế cũng to và vang như tiếng Ngài Di Đà, nhưng hơi “trào phúng, dí dỏm” một chút… Giọng nói của Độc Giác Phật hơi khàn nhưng cứng cỏi, giọng của Người khô khan và khó gần!...

    Phật Ngài Di Đà tướng người to lớn, mũi cao, miệng rộng, môi dầy, vầng trán cao vợi. Ở Ngài toát ra một vẻ oai nghi, đĩnh đạc! Tôi không nhớ nhiều lắm về Người, Người về thăm tôi vài lần, nói vài câu chuyện rồi


    đi – mặc áo thụng màu lam! Đôi chân mày làm tôi nhớ rõ nhất: dầy và đen, nằm vắt ngang trên hai mắt tạo thêm vẻ quyền uy, trọng phục!

    Một lần – Ngài Độc Giác về với tôi khi tôi đang khóc vì “bị đòn”. Ngài hỏi tôi: “Hành hương là gì hả con?”. Tôi trả lời một cách máy móc: “Dạ là đi cầu Đạo ạ!” – Phật Ngài nói: “Con tưởng hành hương là đi trên thảm mà mang hài thêu sao! Hành hương có nghĩa là đi chân trần trên đất, qua nắng lửa mưa dầm – bão tố phong ba, qua sỏi đá chông gai, bóng đêm và vực thẳm…”

    Tôi có hỏi Ngài: “Độc Giác có phải là tên riêng của Người không?” - : “Phải, ta chính là vua Độc Giác, giàu có và nhiều tiền của – Gần như trong tất cả các vị Phật, chỉ có Độc Giác là người giàu có! Độc Giác còn có nghĩa là “Tự mình Giác Ngộ” – Vì vậy có nhiều vị Phật hiệu là Độc Giác chứ không chỉ riêng Ta!

    Trong các vị Phật mà tôi diễm phúc được gặp – duy có Ngài Tỳ Lô Giá Na là hoàn cảnh đặc biệt nhất: Vào 1 buổi chiều độ 5, 6 giờ, tôi đang ngồi viết, sảy thấy một vong ngạ quỷ từ đâu xuất hiện đứng ở cửa chính – Thấy tôi nhìn, hắn ngửa mặt lên trời cười ha hả… Thấy thái độ ngạo mạn thách thức ấy, tôi nổi điên tống cho một đấm! Nếu là phần âm vong, bị đánh là văng ra xa ngay tức thì! Đàng nầy con quỷ bay lên cao, đáp xuống lại cười như cũ… Cả 3 lần tôi đánh hắn đều tỉnh như không! Nghi ngờ tôi chạy ra dùng phép trói nghiến lại, đem vào trong Miếu Mẹ… Con quỷ vẫn ngoan ngoãn đi theo! Tôi bắt khai tính danh, hắn nói độc 4 chữ: “Tỳ Lô Giá Na!”. tôi


    hỏi: “Tỳ Lô là ai?”. Trả lời: “Cung chủ Đạo Tràng Thủy Sám Pháp”… Tỳ Lô thì tôi không nhớ, nhưng Thủy Sám Pháp thì tôi có nghe! – Tôi bảo: “Ngồi yên đó, ta vào tra lại kinh sách, nếu không có tên ông thì đừng trách ta!”

    Lật Kinh, ngay bài Kệ Thủy Sám đã thấy tên Phật Tỳ Lô Giá Na! Tôi hoảng hồn trở ra cởi trói và xin lỗi, mời vào an vị trong nhà…

    Phật Ngài Tỳ Lô nói: “Đạo Tràng Thủy Sám là nơi chuyển căn, chuyển nghiệp! Tới duyên Cô được cứu, Ta mới về đây, ta về trợ cho Cô làm xong giấy chủ quyền đất để tiện việc xoay chuyển mệnh trần”. Nguyên giấy tờ sở hữu đất tôi làm đã tròn 01 năm nay, chạy bay tóc trán mà vẫn chưa xong…

    Sau khi Ngài Tỳ Lô về 15 hôm, tôi lấy được chủ quyền. Đem lên ngân hàng vay 100 triệu lấy tiền trả nợ, còn lại một ít để dành chi tiêu dần, chờ đến ngày bán đất… Chuyện nầy tôi sẽ kể sau!

    Từ đó, xem như cuộc đời mẹ con tôi bước sang một giai đoạn mới – thiếu thốn, đói nghèo, bất hạnh đã qua…

    Giôø toâi xin keå ñeán nhaân duyeân maø toâi ñöôïc tieáp kieán vôùi Ñöùc Ngaøi Ngoïc Ñeá, chuyeän naày có mối tương quan hơi dài dòng một tí. Và cho đến bây giờ tôi mới biết hai từ “Ổng Bả” mà cậu Thu đã nói năm xưa chính là nhắc đến Ngọc Đế và Diêu Trì Địa Mẫu: Cha Trời, Mẹ Đất đấy mà!

    * Dạo mới chuyển nhà về ở trên nầy (năm 2000), vào độ giữa năm, một hôm tôi đang nằm ngủ trưa, mơ thấy một giấc mơ lạ: tôi thấy căn nhà tôi đang ở biến


    thành 1 điện thờ sang trọng, trang nghiêm và đẹp đẽ! Một bức trướng đề: “Điện thờ Lục Cung Thánh Mẫu”. Trong vía lại bảo: “Điện thờ nầy là của mình. Người ta xây nên để thờ mình đó”… Tỉnh dậy, mồ hôi ướt đẫm cả áo vì sợ “thất lễ” với Bề trên: “Trời ơi! Tại sao mình lại dám nói là Điện Thờ chính mình cơ chứ. Tội chết!”

    Qua sáng hôm sau, tôi tìm hỏi Dì Sáu (Đạo Mẫu) ở gần nhà dưới Hiệp Thành. Dì Sáu nói “Lục Cung Thánh Mẫu là công chúa Thuỷ Kiều!” Dì cũng chỉ biết có vậy thôi!... Mãi đến năm 2006, khi Đức Ngọc Đế về, Ngài mới giải thích cho tôi biết: “Nguyên Ngọc Đế có 1 Hoàng Hậu (tước hiệu là Bà Thiên Hậu) và 09 Phi. Cửu phẩm là tước phẩm cao nhất thuộc về Mẹ Diêu Trì! Còn tôi ngày xưa có phần căn là Lục phẩm – tương truyền là “Lục Phẩm Nương Nương”. Tôi chợt nhớ lại chuyện năm xưa, cậu Thu nói “Chị còn một phần căn bên Địa Mẫu, phải cúng vía thường kỳ thì Mẫu mới trợ cho chị được!”

    Thực hư là đâu đây, hở Trời?!...

    Đức Ngọc Đế về đưa cho tôi 01 chiếc lệnh bài bằng vàng sáng choá, cỡ to hơn 2 ngón tay nhập lại chút xíu, hai bên khắc 2 con rồng, chính giữa là 1 hàng chữ gì tôi không biết (tương tự như chữ Tàu, sau nầy Mẹ nói là chữ viết bằng tiếng Thiên!)

    Ngài bảo: “Lệnh bài của cô đây! Ngay đêm nay hãy thu xếp về lại Lục cung, mở kho lấy tiền để trợ cho mệnh trần”. Tôi nói: “Lục cung ở đâu, con làm sao đến được?”. Đức Ngài lại bảo: “Nửa đêm thức dậy ăn mặc gọn gàng, sẽ có người tới đưa đi!”


    Tôi mừng háo hức, chẳng ngủ được chút nào tưởng chắc sẽ được một phen du ngoạn ngắm cảnh Thiên Đình, nào ngờ chỉ thấy một màn đêm - chẳng nhìn thấy được cả người dẫn đường. Chỉ mường tượng mình đang ở trong 1 tiền sảnh rộng mênh mông. Có ai đó bước đến đặt vào tay tôi 1 xâu chìa khoá, tôi cầm lấy – điềm nhiên mò mẫm lấy ra 1 chiếc, roài böôùc ngay veà caên phoøng phía beân traùi tieàn saûnh tra chìa môû cöûa. Moïi vieäc thaønh thaïo cöù như người chủ nhà quen từng ngõ ngách trong đêm! Chỉ có thế rồi tôi giật mình tỉnh dậy… Tiếc quá, không kịp nhìn thấy kho của Thiên Đình, rồi cũng không biết có lấy được gì hay không nữa!

    Tôi xin Mẹ về. Mẹ Diêu Trì giải thích cùng tôi: “Bí mật Thiên ?ình đâu phải ai cũng biết được! Con chỉ là xác trần, không phải Linh căn chính chủ, lại là xác tỉnh, cho con thấy thì lộ Thiên Cơ không được phép.”

    Chắc là tôi lấy được của, vì chỉ vài hôm sau tôi có tiền vay ngân hàng!...

    Tôi quên không kể cho bạn nghe về Di Lặc Tôn Phật. Ngài có nước da trắng hồng hào, người đẫy đà một tí, nhưng không hề có “bụng phệ” như hình ảnh dân gian truyền lại! Ngài vui vẻ, hồn hậu và đơn giản, dễ gần – không nghiêm trang và cách biệt như các vị khác!

    Thôi, chấm dứt phần giới thiệu các linh căn. Chúng ta sẽ trở lại vào một dịp khác. Giờ mời bạn đọc sang đề mục mới vậy!


    NGHIỆP THẾ TRẢ VAY


    Trong 22 năm Ơn trên về với tôi, tôi nhận được 3 ân huệ lớn: thứ nhất là có được đứa con gái để an ủi cho tuổi già, thứ hai có nhà cửa yên ổn, thứ ba là việc độ vong cho ba tôi và đứa con trai lớn! Đây là phần khó khăn và nặng nề nhất đối với tôi, so với toàn bộ quyển sách, nhưng tôi không thể bỏ qua hay chạy trốn, bởi vì sự huyền nhiệm chứng minh thực tế từ đây - Thôi thì tôi giản lược những gì cần thiết, xin bạn đọc thể chấp!

    Thôi chồng, ôm con nuôi một mình từ năm đứa lớn nhất mới tròn 9 tuổi, những mong sau nầy con lớn lên làm cho mẹ được nhẹ lòng. Thế mà 20 tuổi con tôi chết!

    Cháu bị bệnh ung thư đại tràng, khi hay biết đưa đi bệnh viện thì đã di căn nhiều nơi, không còn chữa trị được nữa…

    Tôi nuôi cháu đúng 4 tháng. 120 ngày sau thì con mất. Cứ mỗi lần lên cơn đau, khó thở là tôi lại cấp cứu, cháu hết đau và chịu trận tiếp…

    Tới lúc đường ruột hư hoại hoàn toàn, đi cầu lên tục, cháu nằm liệt một chỗ, lòng tôi đau đớn quá! Đêm nào cũng tụng kinh cầu an ngoài miếu Mẹ, cháu lê ra ngồi kế bên nghe, xong rồi nói với tôi: “Khi nào con hết bệnh mẹ cho con ra chùa ở tối con về nhà với mẹ nghe! Con sống, hết bệnh con không lấy vợ, con ở nhà với mẹ, rồi con làm miếu thờ Bà y như mẹ, con tu luôn!”

    Tôi thắp hương xin: “Mẹ ơi! Con hết mức chịu đựng rồi. Mẹ đưa cháu đi đi, không con chết mất”. Điều kết


    cuộc không thể tránh, càng kéo dài càng đau đớn nhiều hơn… Mẹ Diêu Trì về bảo: “Ba ngày nữa ta đưa nó đi!”. Chiều ngày thứ hai lúc 2 giờ chiều, Mẹ Diêu Trì về bảo: “Con nấu nước pha ấm tắm cho cháu sạch sẽ, ta đưa cháu đi!” – “Mẹ, Mẹ nói gì?” - : “Không có gì đâu! Tắm cho nó để nó hết bệnh ta đưa nó lên chùa quy y!”

    Tôi nấu nước , dìu cháu vào tắm sạch sẽ thay đồ. Kể từ 2 giờ chiều đến 2 giờ sáng cháu không hề đi cầu lần nào! Tôi ngạc nhiên: “Chắc là Mẹ cứu, cho cháu hết bệnh thật rồi!”

    Đến hai giờ sáng, cháu gọi tôi: “Mẹ ơi, ra nằm với con. Mẹ ôm con đi!”. Tôi dặn cháu: “Con nằm im không nghĩ ngợi gì và nhớ niệm “Nam mô A Di Đà Phật” nghe con!”

    Cháu nói: “Con không đi cầu, không còn đau nữa từ hôm qua tới giờ, chắc là con hết bệnh rồi hả mẹ!”…

    Đến 3 giờ 30, nghe tiếng cháu ú ớ, tôi chạy ra thì thấy cháu đưa tay như kiếm tìm - Tôi nắm tay, cháu yên tâm lại rơi vào cơn hôn mê, tôi bật Kinh lớn, bảo linh hồn con lắng nghe, vạch mi mắt thấy đã đứng tròng, tôi biết cháu chết… tim vẫn còn đập nhẹ nhàng, đều đặn!

    Mãi đến 7 giờ sáng cháu vẫn chưa đi hẳn, thỉnh thoảng lại đưa tay ra, tôi nắm tay con áp vào má mình. Chỉ cần nghe tiếng Mẹ là cháu yên lòng, Mẹ cứ như là thần hộ mệnh, không có mẹ là cháu sợ, vì khi lên cơn đau chỉ Mẹ mới cầm được!

    Tôi nói: “Mẹ biết thần thức con còn. Nghe mẹ niệm Phật rồi niệm theo mẹ nè!”. Cứ thế mẹ con tôi ngồi chờ


    đợi. Tôi nói: “Mẹ biết con nuối Ba, Ba con về Bắc giỗ Nội chưa vô kịp. Con đi đi, rồi Ba về Ba thắp hương cho con sau, con nuối Ba hoài Mẹ chết mất!”. Nói xong, tôi đứng lên bảo thằng em kế: “Nắm tay anh cho nó không sợ! Mẹ đi đánh răng!”. Tôi vừa quay lưng, cháu đã thở hắt, ra đi!

    Các bạn thấy đó. Có ai bị bệnh như vậy mà ra đi nhẹ nhàng không hề đau đớn, chỉ ngủ yên lành, giờ phút cuối cùng không vật vã… Từ lúc bệnh đến khi mất, chỉ sút có 2kg. cháu chết còn 52kg…

    Đã có hiểu biết, tôi làm như lời kinh Phật dạy, tôi cắn răng đến bên con: “Mẹ hôn con nè! Mẹ không khóc. Con đi đi, theo Phật đi con!”. Hôn cháu xong, tôi lao vào buồng mới khóc cho đã đời…

    Mấy ngày liền tôi ngồi miết bên áo quan con, bỏ con một mình con sợ! Khi vào nhà vệ sinh, thấy cháu đứng co ro: “Mẹ ơi, con lạnh!”. Tôi chạy ra khóc ngất, vía thấy lấy quần áo mặc vào cho con: “Mai mốt không để Mẹ thấy con trần truồng như vầy nữa nghe không!”

    Điều đày đoạ tôi nhiều nhất là tôi nhìn thấy được âm vong! Chính vì vậy mãi đến giờ nầy sau 4 năm con mất, lòng tôi chưa hề nguôi thương nhớ… Ba bữa cơm cháu về ăn đủ, thậm chí thèm món gì cũng nói cho Mẹ biết để Mẹ nấu cho ăn!

    * Mẹ Diêu Trì về bảo: “Nó là Thiên Tướng, trốn đi chơi xuống đầu thai làm con của con. Ở trên biết thì bắt về ngay, làm sao khác được! Giờ con thương con của mình thì ăn chay đủ 100 ngày Ta cho đưa nó về ngôi”.


    Tôi cầu Mẹ cứu, xin cho cháu không chịu kiếp luân hồi nữa. Mẹ hứa với tôi!

    Tôi tụng kinh cầu siêu cho cháu đủ 49 ngày.

    Trước, thời gian cháu bệnh, tôi nguyền rằng không cứu được con thì thề không chữa bệnh cho ai nữa! Cháu mất 49 ngày, bệnh nhân lại tìm tới… Bỏ sao đành, nghiệp cũ lại mang!

    Aên chay mới được 3 thất (21 ngày) miệng đã lở đầy, vốn tôi ăn ít - mỗi buổi, chỉ đầy 1 bát, nấu đồ mặn cho con, mình ăn uống qua loa nuốt không trôi. Người liêu xiêu đi đứng không nổi! Mẹ Diêu Trì về bảo: “Thôi, ráng 49 ngày đi con!”… Đến ngày thứ 27, Mẹ lại về nói: “Trưa mai cúng thất thằng nhỏ. Con mua chè xôi cúng tất cả bàn thờ trong nhà, mua cho nó 1 con ngựa và 1 bộ áo mão màu vàng nghệ, ta cho trả nó về căn”…

    Trưa hôm sau, Thầy tụng kinh cầu siêu, cả nhà tề tựu trong phòng khách (tôi đốt áo mão và ngựa cho cháu từ sớm!). vía thấy cháu về, mặc bộ đồ quan tướng đẹp lộng lẫy! Cháu bước vô lạy bàn thờ Phật 3 cái, quay lạy Mẹ 3 lạy trả ơn Mẹ đưa về Ngôi. Xong ôm vai Bà Ngoại: “Con thương ngoại lắm!”. Chiếc mão vướng trên đầu, cháu hất cái mão ra sau lưng, siết hai vai ngoại 1 cái rồi đi! Chiều tối vô chùa tụng lễ cầu siêu, lại thấy cháu mặc đồ lễ lách qua hàng người, quỳ lại Tam Bảo 3 lạy!

    * Khi con mất, tôi mới tin điều ông bà xưa truyền lại mỗi người có 3 hồn 7 vía!

    Tự dưng tôi mất một, giờ lại có 3 đứa giống y như nhau, giống nhau về nhân diện nhưng tính cách lại khác:

    thằng ở nhà ăn cơm ngày 3 cữ đúng là nó, chẳng sai vào đâu! Tối ngày lịch sự lắm thì mặc quần tây, ở trần tính hay giỡn thích chọc mẹ và có tật xấu là thích ăn vụng trên bếp … tôi đang nấu đồ ăn, vừa nếm thử sau lưng đã nghe tiếng : “hén hén ăn vụng hén – hổng cho con ăn kìa!”… “Tí thích chọc mẹ vậy đó cho mẹ vui, để mẹ cứ khóc hoài!” … đạp xe trên đường thấy ai đó có đầu tóc giống con cũng khóc, thấy xe 67 , thấy lính dân quân, thấy bạn con ngày trước - thấy chút xíu gì tương tự như con cũng khóc!

    Có lúc thấy con đứng lên đàng sau yên xe ôm vai: “Tí đây nè, mẹ đừng khóc người ta cười đó!” ra chợ ngồi ăn sáng quên mời con, lại khóc ! Tôi nói: “mẹ mất hồn, mẹ quên con cũng phải ăn cùng mẹ để đói nghe con !...” Có lần đi hội Thơ về, buồn quá tôi đi bộ lang thang trên hè phố giữa trời trưa nắng cháy - thằng nhỏ hiện ra siết hai vai tôi: “đi xe buýt về mẹ, nắng lắm!”. Vừa nói xong xe trờ tới, tôi leo lên, khi tìm được chổ ngồi lại thấy cháu bước tới: “Tí đi chơi nghe mẹ!”. Nói rồi đi mất!

    Thằng ở chùa thì nghiêm trang, đạo đức – chuyên mặc áo sơ mi màu xanh biển, tay dài – nói năng nghiêm túc! Còn thằng thiên tướng thì mặc sơ mi trắng hoặc đồ tướng, đối với tôi chỉ vừa đủ lễ, cứng ngắt và hơi khô khan, không bộc lộ cảm xúc…

    Chết cũng như khi còn sống, thằng bé có tật hay chọc ghẹo mọi người bằng cách nói dối. Trong các em tôi, có Út Thảo là thương cháu, lúc nào nhớ lại cầu cơ gọi về…


    Có lần Tí về than: “Con đói lắm út kiếm gì cho con ăn đi!” – hỏi thì cháu nói có ông nào lạ, ông không cho con về nhà, mẹ cúng con không về được. Út vừa khóc vừa đi mua bánh cho cháu ăn ! Bé Ti về nói với tôi: “Mẹ điều tra lại xem sao, phần âm nào cũng cho ăn được, con mình để đói sao” – tôi nghi ngờ - về tận nhà dưới, gọi Thiên Tướng về tra hỏi! Tí - Thiên Tướng (chúng tôi gọi thế để phân biệt với thằng ở nhà) về, nghe tôi vừa khóc vừa quát lính quýnh quỳ xuống đất giữa nhà: “Mẹ lo cho con về ngôi đàng hoàng, giờ con bỏ không để tâm tới linh hồn mình là sao?” Thiên Tướng bảo: “Nó không đói. Con bảo đảm với mẹ là con không để cho linh hồn khổ, con cũng là nó cơ mà!”. Tôi lại mắng: “Mẹ đủ bổn phận với con rồi, giờ con đi đi - Mẹ con mình không còn dính líu nhau nữa. Để mẹ lo cho linh hồn của con, con đi cho khuất mắt mẹ !”…Lúc đó, hai thằng đều là thằng Tí con tôi cả !

    Tôi lại gọi đứa ở trong chùa về, cháu bước vào ngơ ngác: “con không đói, con ở chùa ăn cơm chùa lâu lâu mới về thăm mẹ…” thấy cháu mang đôi dép loại tổ ong đã cũ và rách cả rồi! Tôi hỏi thì cháu nói: “dép con đứt con lượm đôi này dưới cột đèn mang đở, còn mang được, không sao đâu mẹ”.

    Đau lòng tôi quá, tôi cho âm vong, bố thí cho tất cả các phần từ người tới ma vậy mà để con mình ra nông nỗi này sao?: “Thôi được để rồi mẹ lo! Nếu mẹ đốt tiền vàng, quần áo cho con, con nhận có được không?”. Cháu nói nhận được, chỉ xin tôi cho một cái áo sơ mi trắng để


    lạy Phật !

    Tôi bảo đứa ở chùa trở về chùa, Thiên Tướng cũng không nhìn! Thằng nhỏ đứng bên tôi từ nãy giờ nói nhỏ vào tai: “Thiên tướng nó còn đứng ngoài sân kìa mẹ, con sợ nó lắm!” Nó nhảy tót lên giường ngồi kế bên tôi bảo: “con nói nhỏ vô tai mẹ, cho mình mẹ nghe thôi nha!” rồi nó nhẩn nha kể: “Lúc con mới chết, bị hai người kè vai dẫn con tới một căn phòng rộng mênh mông, trong đó có rất nhiều người vừa mới chết như con, ai cũng đau đớn nằm lê la dưới đất chờ gọi tới tên mình đưa ra xử. Tới lúc Ông Quan hành xử kêu: “Nguyễn Hoàng Nam!” bỗng nhiên có ai đó bước tới nói nhỏ vào tai, Ông Quan khoát tay cho người đưa con ra ngoài…

    Con không phải bị giam dưới địa ngục, ở trong trại tập trung 3 ngày đem đi chịu đòn 1 lần, sau tới bảy ngày… con chỉ có chịu đòn ba tháng rưỡi thôi!”

    Cháu còn kể cho tôi nghe: sinh hoạt ở cõi dưới cũng y như trên nầy, tội nhẹ là được ở ngoài trại ăn uống, ngủ nghĩ, làm việc và vui chơi y như là còn sống … tới ngày kêu tên đưa đi chịu đòn, trả tội xong về lại sống như thường!

    Cháu nói : “Con giả bộ nói con đói để Út mua bánh cho con ăn đó mà”. Tôi hỏi thì cháu kể danh dách hôm qua mẹ cho ăn món gì…

    Nghe con nói là sử dụng được những đồ hàng mã như nhà, xe, tiền vàng… tôi mới tin! Tôi mua nhà, xe máy, quần áo giầy dép và tiền bạc đốt cho con. Mua cả cho ba tôi một căn nhà, về sau cháu về bảo: Ông ngoại còn ở


    trong địa ngục, chưa ra được nên nhà ông con giữ, giờ con có hai nhà.

    Tôi hỏi xe máy đâu đi về cho mẹ coi. Út nói con nói với Út là xe bị cướp rồi phải không?. Cháu kể tôi nghe: “Tối đó con đi xe qua bụi cây kia có ba thằng xông ra để cướp xe. Con đánh nó bò luôn, xong nó quỳ lạy xin tha! Nó biểu là tại Mẹ nó ở trên này đang bệnh nặng không có tiền chữa, nó muốn lấy xe bán gởi tiền về cho Mẹ… Con tội nghiệp quá nên cho nó cái xe đem bán, rồi con cho ba đứa về ở chung nhà với con luôn!”. Cháu hạ giọng: “Mẹ đừng có la con nghe, mấy thằng đó hiền lắm, cho nó ở chung với con nghe Mẹ! Còn nhà của ông ngoại con cho ba Mẹ con của bà bán vé số ở nhờ, mai mốt Ông ngoại lên con lấy lại trả cho ông !”.

    Tôi nghĩ ra cách để trợ cho con: mỗi tháng tôi chiêu đãi âm vong (hay còn gọi là cúng cô hồn) một lần! Khi cúng tôi gọi con về cho nó làm chính chủ phân phối lộc thực. Vì có lần vị Chúa Quỷ được tôi mời về đã nói: “Con của Cô Hai là trùm ở cái xứ nầy!”: “Gì, nó quậy hả?,” Chúa Quỷ nói: “không, trùm phân phối lộc thực!”. Tôi hỏi cháu thì cháu nói người đói nhiều quá thấy tội nghiệp, nên ngày nào Mẹ kêu về ăn cơm cháu cũng đem ra cho người khác ăn cùng…

    Con tôi linh thiêng lắm! Tôi kể cho bạn đọc nghe.

    Cũng là để biết thêm về thế giới vô hình một chút:

    Lúc mới chết chưa tới 49 ngày, có lần nửa đêm tôi đang ngủ nghe tiếng con gọi ngoài cửa sổ sát bên giường nằm: “Mẹ ơi mẹ, mở cửa cho con!”. Tôi lên tiếng:


    “Thằng Ti hả?” – “Dạ, mở cửa đi mẹ!”… Tôi thức dậy ra cửa và mắng: “Đi chơi tới nửa đêm mới về kêu cửa là sao?” – Mở cửa ra, một trời trăng sáng dằng dặc không người…

    Khi cháu mất được 01 tuần lễ, tối về chui vô mùng: “Cho con ôm mẹ con ngủ với mẹ nghe!” – Ba đêm liền cháu đều về ôm mẹ ngủ, sáng sớm hôm sau cả người tôi đau như muốn gãy ra từng khúc. Thấy tôi đau quá, hôm sau cháu chỉ chui vô mùng hôn mẹ 1 cái rồi chui ra đi mất!

    Thương cháu, út Thảo xin điện thoại di động của Tí đem về sử dụng. Thời gian đầu cứ than: “Có ai đó cứ phá điện thoại hoài! Đang ngủ nửa đêm chuông kêu, choàng dậy cầm điện thoại lên thì chuông ngưng, không có số ai gọi hết!...” Tôi cũng chẳng nghĩ gì, mãi về sau thêm vài lần có sự lạ, tôi mới biết là âm vong làm được nhiều điều mà chỉ khi thật mắt chứng kiến ta mới tin!

    Hai anh em Ti và bé Chi đi chơi Đầm Sen với út Thảo, đến 7 giờ tối vẫn chưa về, tôi nôn nao trong dạ, nhủ thầm: “Để nấu xong nồi canh điện cho út hỏi sao coi!”. Vừa lúc đó chuông điện thoại di động reo, tôi lên thấy út Thảo gọi… Đầu dây bên kia, út cũng: “Alô! Chị Hai điện cho em hả?” – “Mày gọi chị thì có. Đang nấu nồi canh nghe chuông reo mà!”. Út cãi lại: “Em đang ngồi chơi, nghe chuông reo, mở ra thấy số của chị gọi, em mới lên tiếng đó chứ!” - thì ra thấy tôi lo, Tí “kích” cho điện di động của hai chị em liên hệ với nhau…

    Một lần, nghe tiếng chuông reo, tôi cầm máy thấy


    số của Ti đang gọi mẹ! Tôi lên tiếng: “Alô! Con gọi mẹ chi vậy?”. Đầu dây bên kia: “Mẹ kêu con có chuyện gì vậy?”… Tôi gắt: “Con điện cho mẹ, mẹ mới bắt máy mà!”. Thằng nhỏ hạ giọng: “Thôi rồi! Anh Hai điện méc mẹ con uống rượu chứ gì! Tại hôm nay sinh nhật bạn, mẹ đừng la con nghe!”…

    Điện thoại bàn của nhà tôi, hễ người nào tôi không thích, là cháu chặn không cho chuông reng. Họ tới nhà bảo: “Sáng hôm qua gọi 3 lần không có ai bắt máy!”. Lúc đó tôi ở quanh quẩn trong nhà, có nghe tiếng chuông reng hồi nào đâu!...

    Khi nào điện cho ai bấm số 2, 3 lần đều trật hoặc nhảy thiếu số, tôi biết ngay người đó không có ở nhà!

    Có lần phải tiếp điện thoại của 1 người, nghe họ nói chuyện “bất lịch sự”. Tôi giận quá nói: “Có khi nào đang nói mà máy mất tín hiệu không vậy?”. Vừa nói xong thì mất tín hiệu thực… Tôi tức quá, điện lại để mắng họ, hỏi: “Sao tự dưng cúp điện thoại vậy!” – “Anh đâu biết, tự nhiên em nói xong thì nó cúp, anh nghĩ em giận anh ngắt điện đấy thôi!”…

    Tôi đi đâu, cháu theo sau lưng… Rất nhiều lần tôi mất mát, cháu giữ lại cho tôi! Có hôm sáng 7 giờ tôi đến tiệm in vi tính để lấy tài liệu đặt in, kiểm tra lại các thứ mất 10 phút, trở ra móc túi thấy tiền không còn. Nhìn dáo dác, tờ 100 ngàn rơi ngay dưới đất chỗ chiếc xe đạp đang dựng đó! Lạ một điều nó nằm “trơ trơ” chỗ bàn đạp, không có cục đá hay bánh xe chèn lại. Nếu có gì che chắn, ta bảo gió thổi tờ tiền mắc vào, đàng này… 100


    ngàn, tờ giấy polime mỏng dính, đang buổi sáng sớm người qua lại thật đông, suốt 10 phút mà không ai nhìn thấy thì thực lạ lùng!

    Lần nữa tôi vào nhà đứa cháu gái chơi suốt 1 giờ rưỡi, buổi chiều gió thổi lồng lộng, lá cây trứng cá ngoài sân bay cả vào nhà… Vậy mà bước ra về mới phát hiện tờ 50 ngàn rơi dưới đất, cũng nằm ngay chỗ bàn đạp giống y đợt trước, và nó nằm đấy suốt tiếng rưỡi đồng hồ!!

    Có lần tôi đi công việc buổi tối, đang mặc áo hở cổ, lo mất dây chuyền, tôi mở ra, cẩn thận móc khoen khóa lại rồi bỏ vào túi quần. Túi vải lại nằm rất sâu, rơi vào đâu được!

    Đêm về thay đồ ra đi ngủ rồi quên mất! Sáng hôm sau bảo bé Chi đạp xe đi mua gạo. Tôi ở nhà phát hiện mất dây chuyền, tìm nháo nhác… Chi đi mua gạo rồi lại mua đồ ăn sáng, về tới cửa nhà thắng xe lại mới nghe sột soạt ở bánh trước, moi ra là sợi dây chuyền của mẹ! Lạ một điều nó chỉ vướng vào căm, 1 cách nhẹ nhàng lấy ra được ngay, thế mà không rơi mất, lại chẳng bị đứt, bị hư!... Tôi cười bảo: “Chắc là Ông giữ”. Nghe sau lưng Tí lên tiếng: “Tí giữ cho mẹ đó đa!”…

    Đã 2 lần, cháu mang hình dạng con vật về thăm mẹ. Xưa hay nghe ông bà truyền miệng: “Bướm bà vô nhà là ông bà về thăm con cháu!”. Tôi có tin bao giờ đâu…

    Đêm ấy, hai mẹ con đang ngồi xem ti vi, thấy con bướm đen nho nhỏ cứ bay lượn qua trước mắt xong đậu lên tấm ảnh PB treo trên vách, rồi lượn trở lại ngay trước


    mặt tôi… Thấy điều lạ, tôi bước tới đặt bàn tay lên tấm ảnh PB, khấn: “Nếu phải là con về với mẹ thì bay lên đậu trên tay cho mẹ tin!”. Con bướm lần mò leo lên mu bàn tay tôi, tôi nhẹ nhàng mang bướm trở lại ghế ngồi và theo dõi… Nó chẳng hề sợ sệt gì, chớp hai cánh múa nhẹ nhàng, nhún nhún đôi râu và chân, thỉnh thoảng bay lượn 1 vòng, lại trở về đậu đúng vào bàn tay tôi đang để mở ra chờ đón, lại múa nhịp nhàng… Suốt hơn 1 tiếng đồng hồ! Khi ngủ, tôi không biết làm sao, để ngoài sợ thằn lằn ăn mất, đem vào mùng một chốc lại lo phấn của nó làm dị ứng. Đành đem ra thả cho nó đậu lên bụi kiểng trước nhà…

    Lần sau, lại có 1 chú dế nhỏ nhảy loi choi trước mặt, tôi đuổi mãi không chịu ra ngoài. Tôi cũng khấn y như lần trước, dế nhảy ngay lên ngực áo tôi rồi bò lên tay

    mấy cái chân nhỏ nhún nhún, thỉnh thoảng lại cắn nhè nhẹ, tôi la lên: “Đau, đừng cắn như vậy đau lắm!”. Chơi với dế con, tới giờ ngủ tôi mang ra để lên cây nguyệt quế trước nhà, 3 lần chú dế nhảy ngay trở lại vào người tôi! Tôi khóc và khấn: “Thả cho con dế đi thôi con, kẻo nó vào nhà thằn lằn ăn nó, mẹ thương con mà!”. Thế là con dế chui vào đám lá lẫn mất…

    Thôi! Chấm dứt chuyện kể về con trai tôi, vẫn còn nhiều trường hợp lạ lùng về cháu, lúc khác tôi kể tiếp bạn nghe! Giờ chúng ta chuyển sang đề mục khác! Tôi tặng bạn đọc 2 bài thơ tôi làm cho cháu, kỷ niệm một phần hồn đã mất của tôi!


    MẤT!!!


    Những cành cây cằn cỗi ngoài kia Còn chờ ra hoa, đợi ngày kết nụ Trả ơn đời tháng ngày lưu trú Con thì không!...

    Những chú dế sinh tự lòng đất hoang Aên lá cỏ, uống sương trời để sống Còn đợi ngày có đôi có bạn

    Con thì không!...

    Những cánh chim đậu trên cành xoan Ngẩng nhìn trời xanh khao khát

    Đợi tung bay về phương trời mơ ước Con thì không!...

    Những thanh niên đồng trang lứa với con

    Đang chuẩn bị cho ngày mai – đang yêu và đang sống Đang mỉm cười tự tin và hy vọng

    Con thì không!...

    Chẳng đợi ngày đơm hoa kết trái Chẳng chờ khi có bạn có đôi Chaúng öôùc mô khao khaùt moät ngaøy Thôøi gian ñieåm, hö voâ là tuổi sống! Ngày sinh con ra…

    Trong nỗi đau của người đàn bà – lần đầu tiên vượt cạn Mẹ mỉm cười – ơn Thượng Đế bao dung

    Mơ một ngày mai con mẹ lớn lên Đẹp đẽ, thông minh và nhân hậu Ngày sinh con ra…




    Mẹ nguyện cùng trời đất

    Đánh đổi bất hạnh của đời mình – thành hạnh phúc cho con! Không kịp nữa rồi, Thượng Đế đã quay lưng

    Lời khấn nguyện rơi vào biển lửa

    Cơn lốc cuộc đời kéo con xa rời vòng tay của mẹ Và Tử thần đếm mỗi bước con đi!...

    Mẹ gục đầu đau đớn trước ngày mai

    Cho dù đổi cả trái tim và tấm lòng người mẹ Cả hạnh phúc một đời không có nữa

    Mẹ rồi cũng mất con!!!


    Tịnh Vân





    HOA MƯỚP VÀNG


    Hoa mướp vàng không đậu rào cao Mẹ đưa con về lại chiêm bao

    Yêu con bằng hết tình của mẹ Bằng cả một đời bước thấp cao!


    Ngủ đi con – ngủ thôi con yêu! Mẹ ru con, đêm dài cô liêu

    Mình mẹ với con trong giấc trắng Nghiêng vành nôi, trăng rụng giọt sầu


    Quên ngày đôi mươi, quên ước mơ Quên tình yêu – niềm tin và hận Quên cay đắng, muộn phiền, tật bệnh Con lại về trong lòng mẹ bao dung!


    Hoa vội tàn, trăng vội khuyết ngoài song Ngày tháng lạnh lùng qua – cứ thế!

    Dẫu sương tuyết phủ giăng đời mẹ Vẫn vẹn nguyên tình mẹ yêu con


    Hoa mướp vàng lạc lõng ngoài sân Ong bướm lượn, thẫn thờ bóng lẻ Con yên ngủ trong vòng tay mẹ Mẹ ôm con – ru suốt một đời!!!


    Tịnh Vân


    Từ năm 2000 trở đi, khi chuyển về ở chỗ mới, tôi có nhiều thời gian và điều kiện rỗi, Ơn trên cho làm việc nhiều hơn! Lúc nào bị đòn nặng, tự nhiên ít có bệnh nhân. Vừa khỏe chút xíu, bệnh nhân đã kéo tới đầy… Tới “lai rai” cả ngày, tập trung vào buổi tối! Kể từ khi mẹ Diêu Trì về trợ xác, Người tới tôi toàn bị bệnh giả (có nghĩa là bệnh do âm vong phá hoặc căn Trên, căn Cửu Huyền hành).

    Đến nỗi tôi nghi ngờ thần thức của mình, chắc là bệnh tưởng – sao nhìn vào đâu cũng thấy ma quỷ thế nầy?! Tôi hỏi mẹ, mẹ Diêu Trì nói: “Phần hành nào đưa


    về cửa nấy. Tất cả đều có sự sắp xếp cả rồi!”. Vậy, tôi là người chuyên “bắt ma” sao?

    Ngày xưa, nghe nói tới thầy bùa thầy pháp, là sợ mất hồn… Cứ tưởng tượng đến bà phù thủy Babazaga cỡi cây chổi bay vèo vèo khắp hành tinh, ai nhìn thấy cũng phát run! Lắm lúc, tôi nhìn lại chính mình: Ta trở thành phù thủy từ lúc nào vậy? – Tất cả những việc thầy bùa, thầy pháp làm tôi đều làm được, không cần phải yểm bùa, khoác áo thụng làm phép, không đội vải đỏ múa may quay cuồng trước bàn thờ, cũng chẳng ợ ngáp uốn éo thỉnh vong về. Và không phải đổi giọng theo kiểu âm hồn lớn bé, già trẻ, gái trai!...

    Tôi có thể mời Sơn Thần Thổ Địa, Thần Sông, Thần Biển, Chúa Quỷ… Mời ai, người ấy tới cho tôi gặp! Có điều tôi cung kính, nhẹ nhàng, khéo léo và tế nhị dẫn dắt, điều tra sự việc cho đến cùng. Khi giải quyết xong chuyện mới chịu thôi… Người Âm tới người Dương, kẻ dưới trên các cõi đa số đều tâm phục, khẩu phục! Bởi tôi lấy cái Tâm, cái Đức mà hành xử, không dùng quyền phép áp đặt, gò bó người nào…

    Có điều đừng ai nộ nạt, đánh lén tôi! Lúc đó tôi dùng phép trói nghiến nhốt vào ngục tối và chưa có phần nào tôi chịu thua! Khi tôi “nổi cơn giận” là tôi thủ thắng… Bình thường chỉ cần 1 âm vong ngoan ngoãn, buồn sợ là tôi cứu, tôi cho tiền bạc, ăn uống – phần nào hiếp đáp kẻ yếu tôi chẳng tha! Kể từ hai năm trở lại đây, ai bị bùa chú các loại tôi giải rất nhanh. Có điều tôi sợ! Giải bùa “bị đòn” dữ lắm… Tôi xóa lệnh phù, xong cung cấp tiền bạc


    lộc thực cho Binh gia trở về Thầy Tổ! Đa số nghe lời tôi khuyên thường “cải tà quy chánh”, được tôi đưa vào chùa hoặc trả về quê hương xứ sở…

    Tôi kể tiếp bạn nghe chuyện “thực hành cụ thể”. Nghe điều có thể “thực mục sở thị” vẫn hơn lý luận dông dài, bạn nhỉ!


    THỰC HÀNH CỤ THỂ (6)


    Vào năm 1991 cô Kh vốn mồ côi mẹ từ lúc 18 tháng tuổi. Lúc đó cô bé đến nhà tôi chơi, kể chuyện mẹ uống thuốc quyên sinh, không biết 14 năm nay, từ lúc chết đã ra sao rồi! Tôi xin Điển tìm âm vong dời về cho tôi tiếp xúc. Tôi tả cho Kh nghe: Mẹ con chừng 20 tuổi, tóc dài tới mông kẹp lại, mặc áo bà ba màu xanh biển, đi đôi dép nhựa quay kẹp cũ kỹ, đứt quay. Kh bảo: “Nếu đúng là mẹ thì nói cho con biết khi mẹ chết có mất gì không?” – Mẹ Kh nói: “Tôi làm rớt cây kẹp ba lá rơi trong vách nhà, về sau mọi người mới thấy”. Rồi cô ấy kể thêm: “Con Đẻn (là tên gọi ở nhà) hồi nhỏ bị chí đầy đầu. Tôi xui Dì út nó lấy kéo cắt tóc ngắn, nó khóc thôi là khóc! Mười ba tuổi nó xách nước tưới rẫy, bị té xuống giếng, tôi lấy dây gàu quấn ngang eo tôi kéo nó lên!...” Kh nghe vậy khóc và tin là mẹ của mình, Kh nói: “Con té xuống giếng mà không biết làm sao tự nhiên dây gàu quấn cứng vào cây xà ngang trên miệng giếng, con cứ bám dây mà leo lên!”. Một thời gian sau, PB bảo Kh đem tiền tới chùa xin lễ cầu siêu cho mẹ, xong PB cho đưa đi đầu thai, từ đó không thấy mẹ Kh về nữa!

    Năm 2003, cô Kh (lúc ấy có chồng và 2 con) bị tà nhaäp. Ñeâm toái thöôøng mô thaáy aân aùi vôùi ngöôøi ngoaøi khi thì oâng haøng xoùm, luùc laïi anh choàng… Tỉnh dậy bụng dưới đau thốn, có khi ra huyết, đau đến có lúc đi không nỗi nữa. Bị 8 tháng rưỡi như vậy, tình cờ có chị bạn tới chơi nói: “Tao thấy trong buồng ngủ nhà mầy có vong 1 con


    cọp vàng to lắm” (Người nói chính là cô Ng, xác nhập của cậu P mà tôi kể vào đoạn trước).

    Kh sợ quá, ra ông thầy Ba (cũng là người đã trị phần vong cậu P). Ông đòi 3 triệu! Kh đưa được mấy trăm, lấy 2 lá bùa về để trong gối nằm, đêm đó bị “cưỡng bức” luôn 2 lần trong đêm. Tối hôm sau chồng Kh chở lên nhà tôi, Kh khóc: “Cô cứu con không con chết mất!”. Tôi hỏi: “Sao lại để mà chịu đến hơn 8 tháng, sao không nói cho cô biết?”. Kh bảo: “Con sợ cô rầy con tưởng tượng tà dâm”…

    Hai vợ chồng vừa tới 10 phút thì thấy 1 người đàn ông to lớn, vai u thịt bắp bước vào! Tôi đưa ghế ra mời ngồi đàng hoàng, xong hỏi tính danh - Ông ấy cho biết mình không phải là con người nên không có tên, chỉ mượn xác về thôi, hỏi tuổi thì bảo là 127 tuổi! Tôi thấy thế bèn dụ dỗ: “Nhỏ nầy là con nuôi của tôi. Tôi bảo gì nó cũng nghe! Ông muốn gì cứ nói với tôi, tôi giúp cho”. Hắn bảo với tôi: “Cô nói nguyên văn chứ?”. Tôi ừ!. Hắn “tương” cho một câu: “Anh yêu em và muốn có em trong đời!”. Tôi hỏi: “Ông nói gì kỳ vậy. Thấy chồng nó đó không?”. Hắn huênh hoang: “Can gì cái thằng bất tài vô tướng đó mà sợ!”…

    Hắn lại nói: “Bảo cô Kh bỏ chồng ở với tôi, tôi lo cho không thiếu thứ gì” – “Thế ông lấy vợ người ta, ông trả bằng gì?”. Suy nghĩ một chốc, hắn nói: “Ba năm, cả lương lẫn bổng!”. Tôi nói: “Lương bổng nó nhiều lắm, ông trả nổi không?” – “Cô đừng có lừa tôi, tôi biết hết!”. Đoạn, hắn nhìn quanh quất bàn thờ, xong hỏi: “Cô thờ ai


    đây?” – “Tôi đâu biết! Ra chợ thấy đẹp thì mua về để lên thắp nhang chơi vậy mà!”… (Lúc đó tôi đã xin giấu Điển đi hết rồi, để cho tôi tự điều tra).

    Hắn lại nhìn tôi: “Cô đẹp đó. Cô lấy tôi đi tôi lo cho cô đến mãn đời lên xe xuống ngựa, muốn thứ chi cũng có!” – “Ông nói bậy! Tôi có chồng mà”. Hắn cười khẩy: “Cô đừng dối tôi, tôi biết hết! Cô ở có một mình!”… Lúc đó, Điển mẹ không còn nhịn được trước sự càn rỡ của hắn. Tôi chỉ nghe tiếng thốt lên bên tai: “Mẹ Diêu Trì nè con!”. Và thấy hắn thoắt vụt dậy chạy mất… chỉ 30 giây sau mẹ đã đưa hắn vào vứt nằm vắt vẻo trên chiếc ghế hắn vừa ngồi đường hoàng lúc nãy, từ đó hắn cứ nằm úp mặt, không dám ngóc lên nữa…

    Chưa bao giờ tôi thấy 2 Điển Mẹ Quán Aâm và Mẹ Diêu Trì về cùng 1 lúc như đợt nầy, tên nầy hẳn là ghê gớm lắm đây! Mẹ Diêu Trì đứng ngoài, mẹ Quán Aâm đứng trong canh. Mẹ Diêu Trì lên tiếng: “Nói cho ta biết can cớ gì mi gặp cô nầy?”. Hắn kể rằng một buổi chiều nọ hắn đang đi tìm chỗ để cất giữ Linh vị thần, ngang cửa nhà thấy cô Kh đang đứng đó. Cô đẹp, hắn mê nên đột nhập vào nhà luôn! Mẹ hỏi: “Linh vị Thần để ở đâu? Mi là con gì, khai ra mau!” – “Linh vị để trong tủ chỗ giường cô Kh nằm”. Hắn bảo mình là con cọp trắng có vằn đen! Tôi hỏi: “Sao cô Ng thấy cọp màu vàng?” – “Ngu gì để cho người khác biết chân tướng của mình!”

    Mẹ Diêu Trì bảo: “Gọi Thần Bạch Hổ về đây cho ta!” – “Lần đầu tiên, tôi mới thấy nhân diện của Thần Bạch Hổ: chỉ có phần đầu là mặt người, tứ chi lốt cọp


    trắng vằn đen, có đuôi đàng sau thật dài! Thần đi 2 chân như người, chỉ thấy từ trên cao đáp xuống đất, cung hai tay chào Mẹ - Mẹ phán: “Tới nhà cô Kh vô cái tủ trên đầu giường lấy Linh vị của hắn đem về đây cho ta!”. Độ chừng 1 phút sau Thần BH vừa đáp xuống, tôi thấy mẹ Quán Aâm thoắt chồm tới thật lẹ, xé tan chiếc Linh vị vứt bay vèo ra ngoài! Tôi la: “Mẹ, mẹ không để cho con xem linh vị đó ra làm sao!”. Mẹ nói: “Nó cướp được chạy trốn mất, ta truy bắt được cũng còn khó!”

    Mẹ Diêu Trì bảo thần BH: “Đem nó về giam dưới gốc cây mai trước nhà cô Kh”. Tôi hỏi thì cô Kh xác nhận là có 1 gốc mai lớn ở ngay trước nhà! Thần BH đưa hắn đi mất, phút sau trở về nói với cô Kh: “Báo gia chủ tôi đã giam hắn ở gốc mai bên phải căn nhà. Sau 21 ngày mới đưa đi xét xử! Tôi cần nhắc kỹ để cho hai vợ chồng nhớ: “Để ngay tại đó 1 ly gạo, 1 ly nước cho hắn ăn uống, nếu thấy dơ phải thay ngay ly khác! và trong suốt khoảng thời gian 21 ngày phải giữ sạch sẽ khoảng sân trước - ngay 1 tàn thuốc, 1 chút nước thừa cũng không được đổ ra đó, nếu không phép của thần BH không thiêng.”

    Mẹ Diêu Trì giải thích: “Quỷ tu lâu năm thì hiển Thần, chúng ta phải tôn trọng họ!”. Hèn nào mẹ không cho tôi tiếp xúc nhiều với các vị Thần, vì “Trong Thần có Quỷ” (Mẹ nói như vậy!)

    Mẹ bảo tôi án hình chữ Vạn trên lưng cô Kh thêm mấy ngày nữa để tẩy hết tà khí ra khỏi người cô! Tôi làm được 2 ngày, Kh lên bảo: “Sao con nhức đầu dữ quá, nhức 24/24 luôn!”. Tôi sanh nghi, hỏi; “Thế Oâng Ba có đưa gì


    cho con không?”. Kh bảo: “Có đưa 2 lá bùa để ở dưới gối nằm!” – “Hèn nào mà chẳng bị đòn. Binh không ở trong đó mà!”…

    Tôi giải bùa, bảo Kh chiêu đãi Lộc thực trả về thầy Tổ, cô Kh hết nhức đầu ngay tức thì và cũng hết bệnh tà mị…

    Đúng như lời Mẹ nói – Người đã bị Tà nhập được 1 lần thì cứ bị hoài! Từ ấy đến nay đã 5 năm trôi qua, Kh thường xuyên bị hết phần nầy tới phần khác quấy phá, hễ tôi giải ra lại bị “chịu đòn thế!”

    * Hai vợ chồng cô Kh mua được 1 căn nhà xây cất rất đẹp, giá lại rẻ! Chưa kịp mừng, rất nhiều chuyện kỳ lạ xảy đến:

    Có con rắn chui vào nằm khoanh trên bếp gas, dưới ấm nước… Lạ một điều căn nhà sạch sẽ, tân kỳ, bếp gas đời mới – Có ẩm thấp, dơ bẩn, là môi trường cho loài động vật bò sát đâu!

    Đứa con gái 6 tuổi đang “ngồi pô” trợt té u đầu chảy máu, một mực đổ là “tại cái sào phơi đồ nó xô con té!” – Chắc thấy gì lạ ở đấy không chừng!

    Chồng Kh vốn là thanh niên khoẻ mạnh, tỉnh táo, có mê tín gì đâu! Tự nhiên đang đi, nghe như có ai đó xô 1 cái ngã va đầu vào cạnh tường chảy máu…

    Tôi nghiệm lại: “Có lẽ chủ trước người ta xây xong về ở bị quậy phá quá họ sợ mới bán rẻ mà đi chỗ khác! Căn nhà đẹp, thiết kế tân kỳ đến như vậy, tại sao chủ về ở có 3 tháng rưỡi thì bán rẻ, đương nhiên phải có vấn đề gì đấy!”


    Tôi tới nhà Kh, vừa bước vô cửa thoắt đã rùng mình liên tục: 2 âm vong gác hai bên buồng ngủ, WC 2 tên, bếp gas cũng 2… Mở cửa sau ra thấy 1 người nữ và 2 nam. Chúng nắm tay nhau sẵn sàng “nghênh chiến”! toàn bộ là dân ma tuý xì ke, chết dữ thành âm Ngạ Quỷ…

    Lúc đó tôi đang bị hành, rối loạn tiền đình dữ lắm! Người chóng mặt quay cuồng thì trụ Điển về không vững, đành nhờ “Huynh trưởng” lên giúp cho!

    Hai vợ chồng Kh sợ quá phải đăng bảng bán nhà. Người tới xem cũng nhiều, giá lại rất rẻ, vậy mà ai cũng đến rồi đi, thậm chí có người đặt cọc rồi bỏ cọc…

    Sau khi giải phần âm ra chừng có nửa tháng thì Kh bán được nhà…

    * Chị Tám vốn trước làm nghề nấu đám tiệc - Sau bệnh hoạn liên miên, nằm bệnh viện mãi đến nỗi bán cả căn nhà đang ở. Hai năm rưỡi mà bệnh không khỏi! Hết tim lại tới huyết áp, đang đứng ngã đùng ra xỉu – cấp cứu… Đến BV, bác sĩ xét nghiệm máu, điệm tâm đồ không có gì nặng nề, bác sĩ vừa quay lưng đi khỏi đã xỉu rồi!!

    Có người giới thiệu chị lên nhà tôi, đặt ống nghe thấy mạch tim vẫn ổn, mới ra tới đường cái lại xỉu, chồng gọi xe đưa đi cấp cứu…

    Hôm sau, tôi dò ra 2 âm phần: 1 đứa con trai chết bé và 1 con chó cái – Lông nó màu hung, eo bụng thon mảnh, tướng vừa vặn trông bề ngoài rất đẹp! Mẹ Diêu Trì nhập vào tôi, tra án: “Mi bao nhiêu tuổi?”. Đáp: “Hai mươi bảy!” – Hỏi: “Mi có tội gì – khai mau!” – “Dạ, tội


    đam mê sắc dục” – Thằng bé trai thì độ chừng 4 tuổi trần truồng người trắng nõn trông rất dễ thương! Bé nhập về thì người mẹ lạnh – rét run, bao nhiêu mền đắp cũng chẳng ăn thua!

    Chị Tám nói: “Đi coi Thầy bảo cháu nó là Trạng, bảo cúng liên tục: lúc thì quần áo Trạng, ngựa xe, rồi tập vở, tiền bạc… đủ thứ hết trơn!” – “Thằng bé lắc đầu bảo không nhận được gì, ngay cả bộ đồ trên người cũng không có mà mặc – Aâm vong là quỷ, cúng cho Trạng nhận làm sao được! Thằng bé chết dưới nước, hèn nào lúc về là làm cho mẹ nó lạnh run…

    Mẹ khuyến dụ 2 phần đi vào Chùa Hang tu, chúng đồng ý! Mẹ cho ngày, giờ đưa vong – bảo chị Tám mua hoa trái đem lên chùa cúng để gởi vong!

    Đến ngày, chị Tám lên nhà tôi mua hoa trái cúng. Và nhờ tôi đi theo lên chùa! Mẹ về không cho, ngay cả hoa trái Mẹ cũng bắt đưa cả vào chùa: “Nghiệp cô còn lớn lắm – chưa dứt được. Cô Lan nhận lộc bị đòn thế chịu không nổi đâu!”. Chồng chị Tám bảo chị tin lời tôi là mê tín, nên giận chẳng thèm đưa vợ đi (nguyên anh Tám trước là y sĩ, lại theo đạo Công giáo).

    Mới được có 5 hôm, Mẹ về bảo tôi nhắn chị Tư lên cho Mẹ gặp. Mẹ Diêu Trì nói: “2 âm vong đó không chịu tu, quậy quá ta cho trói lại rồi - Cô phải cố niệm Phật và thắp nhang cầu xin cho nhiều, phải tu tâm dưỡng tánh đi! Chúng nó mà trốn ra được thì cô khó mà yên ổn”.

    Mẹ còn vạch ra những tật xấu, thói hư của chị, sau nầy người hàng xóm xác nhận đúng y như vậy!


    Troøn 1 tuaàn leã, 2 phaàn aâm troán ra – veà quaäy chò Taùm nöõa! Choàng vaø con trai dìu leân nhaø toâi, vừa tới nơi chị ngã vật ra ghế: “Chị Lan ơi! Cứu tôi”. Hai âm phần nhập vào, chị Tư rét run và giẫy muốn sập ghế nhà tôi – 2 cái mền đắp và 4 người đè vẫn không lại! Vong con chó nhập vào nghiến răng trèo trẹo: “Tại sao bắt trói tôi ngoài cửa, tại sao không cho tôi ăn”.

    Tôi cầu cứu, Mẹ về – nhẩn nha hỏi: “Sao con, giờ muốn ăn gì ta cho! Gà, vịt hay giò heo?...” – :“Hổng ăn gì hết á!” – Chị T (lúc đó vong đang nhập vào) nhìn sững vào mặt tôi xong xuống giọng! Tôi thúc hối Mẹ bắt vong, để lâu sợ chị T chịu không nổi chắc chết!

    Đợi lúc “xuất kỳ bất ý” – Mẹ bắt 2 con trói nghiến đem vứt ngoài Miếu. Chị T lập tức trở lại bình thường! Chồng chị xin lỗi đã nghi ngờ tôi, anh nói: “Từ cha sanh Mẹ đẻ tới giờ tôi mới thấy lần đầu, lần trước không có mặt tôi – tôi không tin nên đâu có đưa bả đi, để bả thuê xe ôm đi 1 mình. Tôi ghét mê tín lắm – Bữa nay tôi mới tin!”

    Đêm ấy, Mẹ gọi cậu Ph (phần vong vào xác cô Ng lần trước) ở chùa Hang về, bảo đem 2 âm vong đi. Ph nhăn nhó: “Lần trước Mẹ bắt con canh, con mới đi ăn cơm nó đã bứt dây chạy mất rồi. Chân con là chân đi, Mẹ bắt con ở một chỗ canh nó con không chịu đâu!”… Mẹ dỗ ngọt gì đó một hồi, Ph nói: “Rồi, Mẹ lấy dây phép Mẹ trói cứng lại, con vác nó về trển con giao lại là xong!” – Tôi chợt nhìn ra miếu thấy trên cổ 2 phần âm có sợi dây bằng vải màu đỏ…


    * Chị Tám về nhà, khoẻ và mừng chưa được bao lâu

    Tới chuyện Mẹ chồng mất! Bà mất có 10 ngày đã về nhập vô chị T, đánh mắng xác trần, đòi ăn sống, uống máu tươi… và uống rượu như uống nước lã – 1 chai lít rưỡi uống bằng hết mà khi xuất vong chị không hề say! Chị Tám lại bệnh liên miên, lên tôi chữa cũng khi bớt khi không.

    Độ vài lần như vậy, 1 ngày kia bà cụ ra mặt! Tôi nhìn thấy, giả vờ cung kính tới ngồi dưới chân ngọt ngào khuyến dụ… Ban đầu bà lão trừng mắt ngang ngạnh – chốc lát sau thì nhập vào chị T khóc kể lung tung, cuối cùng chịu vào chùa tu, bảo anh chị biện 1 mâm cơm ra tới ngoài phần mộ gia đình để mời cha Mẹ anh Tám ăn 1 bữa từ giã rồi đi! (Nguyên bà là Mẹ kế của anh Tám)

    Từ đó anh chị T tin lắm! Chị đi làm xa tới ngày vía Mẹ Diêu Trì cũng điện về bảo anh đi mua trái cây lên cúng – Khổ nỗi anh T “tứ thời tám tiết” mặc áo thun, quần short! Có lần 8 giờ đêm đập cửa nhà tôi khi ngoài trời đang mưa tầm tã, xin vào thắp nhang cúng vía Mẹ với bộ đồ ấy, làm tôi đứng ngẩn người ra đấy mà chẳng biết nói sao!...

    Có đêm 2 Mẹ con chị T lên chữa bệnh. Con gái chị nói: “Chết rồi, chắc là bể bánh xe rồi! Giờ nầy lấy ai đâu mà vá! Xe chạy không nổi lết bánh như là chở mấy người trên xe vậy!”

    Tôi chữa bệnh xong, rờ bánh xe thấy 2 bánh còn cứng nguyên, bèn vỗ vào tay cầm xe, nói: “Thôi, đi chỗ khác chơi – để cho Mẹ con người ta về nghe chưa!” – Có


    thế, hai Mẹ con chạy xe về tới nhà nhẹ bâng! (Lời chị T nói lại!)

    Cô Duyên. 18 tuổi – bị viêm xoang mũi tái phát! Mũi sưng đỏ đau nhức và sốt cao – Tôi chữa hết sau 5 lần, về sau vài tháng tái viêm tôi trị thêm 1 đợt nữa hết hẳn, không tái bệnh nữa!

    Năm 2001 – Cô Duyên bị ma nhập! Khi người nhà đưa lên, cô D đã nói sảng, phải dìu mới đi nổi!

    Tôi cho Điển trục phần âm, D đau nhức cả người giống như có trăm ngàn mũi kim đâm - Người vẫn tỉnh, hỏi vẫn trả lời nhưng vật vã vì đau ghê lắm. Sau đó chìm vào cơn mê sảng, không còn biết gì nữa!

    Tôi bảo người nhà đưa đi BV cấp cứu: “Cháu bị nặng quá, để ở đây rủi có bề gì tôi phải tội, đưa đi cấp cứu rồi tôi trục âm gián tiếp cho!”

    Gia đình đưa D đi BV Xóm Mới. Ba ngày đêm BV không làm cho hết đau được, mặc dù xét nghiệm kết quả không có bệnh gì! BV Xóm Mới đề nghị chuyển viện lên tuyến trên. Gia đình đưa cháu về nhà…

    Bốn ngày đêm không ăn uống ngủ nghỉ gì, con bé nằm mê mê – không cho ai lại gần! Vong nhập vào nói lảm nhảm lung tung. Gia đình D báo cho tôi xuống nhà từ 9 đến 11g30 đêm vong mới chịu ra… Nằm nhắm nghiền mắt, nhưng lạ 1 điều chỉ cần tôi đưa điện (đưa cách không, không sờ đến người) – Vong lại vật vã, quằn quại nhưng nhất định không chịu xuất ra…

    Ngủ được 1 đêm, sáng sớm vong lại nhập vào. Gia đình lại gọi (dạo đó vào năm 2001 chưa có Mẹ Diêu Trì, Điển trợ còn yếu, nên tôi giải vong chậm hơn!). xác cô D đã đuối lã, không còn nói rõ tiếng nữa…

    Tôi dụ ngọt: “Tôi biết trong nầy có vong mà, xưng tên cho tôi biết coi nào – rồi muốn gì tôi cho nấy không cần phải vật xác đau đớn như vậy!”. Tôi mượn lời dịu dàng giảng Đạo, khuyên nhủ một lúc thì xác chợt mở bừng mắt ra nói: “Con là em bé! Cho em bé rồi em bé đi! Cho quần áo đẹp con mặc, cho giầy có quay hậu con đi, cho nhà con ở (mà phải nhà lầu con mới chịu) cho xe con đi (phải là xe 4 bánh) Rồi cho tiền bạc bánh trái nữa thì con mới trả xác!”

    Tôi khuyên: “Con là em bé, con cầm nhiều thứ ra kia mấy đứa lớn nó đè ra giật hết! Bây giờ vô chùa tu đi, có Phật che chở, có Sư tụng kinh cho nghe, có cơm ăn áo mặc đủ đâu có sợ đói nữa! Giờ cô Lan mua hủ tíu cho con ăn nghe!”. Vong vỗ bụng: “Con đói bụng lắm nhưng đau cổ không nuốt được! Con nhịn ăn hơn 2 năm rồi, chị D nhịn có mấy bữa thấm tháp gì!”

    Vong chịu vô chùa tu nhưng nhất định bắt tôi phải đưa đi thì mới chịu! Thế là cả nhà cô D cùng tôi (cả thảy 6 người) vô chùa Long Thành (ở Đông Thạnh). Vừa vô tới giữa chánh điện cô D nằm ngã vật ra nhắm mắt thiêm thiếp, tôi dụ cách nào cũng không chịu ngồi dậy! Tôi đành khấn xin Mẹ về. Vừa nghe tiếng Mẹ bên tai cô D đã bật ngồi dậy lại ngồi lật Kinh ra đọc miết, tiếng ngọng nghịu như tiếng trẻ con… đợi đến hơn 1g trưa, tôi lại dụ: “Thôi, muốn đọc kinh chiều lại nhà cô cho đọc, giờ về ăn cơm đã, đói bụng quá rồi”…


    Cô D cùng gia đình đi về, trưa đó ăn cơm trở lại bình thường. Chiều 4 giờ đòi gia đình đưa lên nhà tôi! Lúc đó D đã tỉnh nhưng tôi biết vong vẫn còn ở trong xác: “Con nhức đầu quá!” – Tôi bảo: “Thắp nhang lạy Phật 3 lạy đi thì hết!”. Quả nhiên, lạy Phật xong D hết đau đầu!… Vong lại nhập về, nói chuyện hoàn toàn tỉnh táo: - “Cô Lan nấu cho con nồi xông con tắm rửa tẩy trần rồi con trả xác con đi!” – “Để tối cô nói Mẹ chị Duyên nấu cho con tắm nha!”. Vong lắc đầu quầy quậy: “Hông! Cô Lan nấu thì con mới tắm. Mẹ chị Duyên nấu con hổng thèm đâu!” (Điệu nầy chắc đang thử thách mức chịu đựng của mình đây! Tôi nghĩ) Ngặt nỗi gia đình cô D đưa con lên gởi rồi về mất, tôi đành sang nhờ bà hàng xóm đi tìm dùm 1 nồi xông.

    Nấu nước xông rồi tôi pha 1 thau, dìu cô bé vô tắm! Con bé nặng phải gần 60kg, hai cô cháu vô được nhà tắm cũng mệt (cô D lúc đó không còn chút sức lực nào!) – Tôi để 1 ca múc nước trong thau, vậy mà ở ngoài cứ nghe tiếng đập tay, giỡn nước bì bõm hoài… Chờ lâu sốt ruột tôi la lên: “Mau đi, người đang yếu dầm nước lâu bệnh đó!”

    “Bé giỡn nước một chút nữa mà!”…

    Tắm xong ra ngoài, tôi nấu bát nước nhân sâm cho uống, xong gọt trái cây cho ăn! Cô bé D vừa nằm đọc Kinh vừa ăn, vừa cười tủm tỉm…

    Vong nhập vô xác trần cô D có tròn 6 ngày đêm, cô bé đã xuống cân 1 cách thảm hại. Mãi đến 5 năm sau vẫn không lên cân nổi, cho dù ăn uống bồi bổ, bác sĩ thuốc men đủ thứ cũng thua! Người ốm tong teo, da tái xanh…

    Nhiều lần, thấy nước da vàng ệch như người bị gan nặng, tôi bảo D đi xét nghiệm ở BV – Vẫn không có bệnh hoạn gì!

    Giá các bạn nhìn thấy trường hợp nầy, còn ai không tin là “có ma” – ai dám nói rằng “mê tín” khi thuốc men BV cũng chào thua! khi 1 cô bé tròn mập “như con trâu nước”, giờ ốm còn hơn 40kg, da vàng như nghệ!...

    * Về sau, thỉnh thoảng D vẫn hay bị vong nhập, hết vong nầy đến vong khác! Mỗi lúc khả năng tôi lại cao hơn, giải vong nhanh và dễ dàng - Vì thế tôi không kể chi tiết cho các bạn nghe nữa! Tôi lại nói về Điển trợ cho D như thế nào trong hôn nhân…

    Điển về bảo cô D: “Con phải giữ mình, con sẽ mất sự trong trắng với thằng Hùng, nhưng con với nó có duyên mà không có nợ! Ta báo như vậy, con phải cố mà giữ mình!” (Lúc đó Hùng mới là người yêu của Duyên)

    Mấy tháng sau, cô bé lên tôi khóc ngất: “Cô ơi xin Mẹ cứu con đi. Anh Hùng bỏ con rồi!” – Tôi sinh nghi: “Con mất rồi phải không?” – Con bé gật đầu thú nhận! Cầu xin tôi giải quyết mà lại không chịu cho Cha Mẹ biết. Trời hỡi trời! Tôi biết làm sao đây?

    Thế là tôi phải cầu xin Mẹ se duyên cho chúng nó… Cứ vài bữa là cãi lộn, bỏ nhau! Lại khóc, lại cầu xin Mẹ… Có lần con bé đang nằm ngủ trưa, nghe tiếng ai gọi rõ ràng bên tai: “Dậy mau chạy lên chỗ thằng Hùng! Nó cuốn quần áo bỏ đi rồi kìa!” – Con bé chạy tới khóc lóc, năn nỉ, lại … huề! Cho đến khi cưới được nhau – Rồi đến giờ con gần đầy tuổi, tôi vẫn chưa buông được cô bé D


    ấy, nhỏng nhẻo, nũng nịu với tôi như con ruột! Lúc giận chồng thì điện lên khóc kể, đòi tự tử… Tôi lại phải khuyên răn hết lời…

    Vậy đó – Có ai dạy gì buông một “bà thầy đa năng” như tôi?! Vì thế, tôi trở thành người thân gần như cật ruột của biết bao người…

    Người ta vui vẻ, hạnh phúc, bình an tôi không thấy mặt! Bất hạnh, nạn tai đến tìm tôi, tôi phải chịu. Có khi ngày này sang ngày khác – chưa ổn, tôi phải chuyển dời cho đến bao giờ ổn cả mới thôi!

    Làm quan tòa, thẩm phán là tôi. Luật sư biện hộ hay công tố viên cũng tôi! Quan võ gươm đao hành xử – Quan văn khua môi, uốn lưỡi cũng tôi… Làm sao – miễn là đem đến sự bình yên cho người ta thì làm, họ chưa yên thì tôi cũng đừng hòng được… ổn!

    Thường tự xưa nay, khái niệm về tôn giáo, tín ngưỡng vẫn rất mơ hồ, chỉ chứng minh bằng lý luận qua loa – Và cũng chỉ bằng “cái tâm” mà cảm nhận … Ở đây tín ngưỡng và tôn giáo trở thành bàn tay cứu sinh, thực chứng rành rành như bàn tay của tôi đây – Bàn tay 5 ngón, cũng ngón dài ngón ngắn như bao người khác…

    Từ chỗ tôi rời đi, người ta chuyển được tâm mình biết ăn chay niệm Phật, biết đi chùa, biết làm lành lánh dữ, biết hiếu sinh… Phần là do mọi người tin ở bàn tay huyền nhiệm của Bề trên – có sống tốt thì mỗi khi gặp hoạn nạn, Bề trên đâu có bỏ!

    Mỗi người tới nhờ tôi, tôi vừa điều trị vừa an ủi, can ngăn và khuyên cho họ chuyển tâm, bởi bệnh tật và tai


    ách là định nghiệp – muốn xoay chuyển định nghiệp chỉ có 1 cách là “lấy cái Thiện trừ cái Aùc!” – Muốn người tin vào Chánh Đạo, tôi chỉ có 1 cách duy nhất là phải cứu được họ! Niềm tin ở đây còn là sự đánh đổi giữa cái thực và cái ảo – để đổi vai trò: “Điều thấy rằng thực kia chẳng qua cũng chỉ là định hình cái giả – Điều tưởng chừng như ảo lại chứng tỏ lối đường chơn!”…

    * Đêm hăm chín Tết D lên khóc kể với tôi đến gần 10g đêm mới về! Tối mùng 1 Tết tới Mẹ D lên từ 8g đến 10g30, khóc từ giã tôi – bảo là thôi chồng đi về quê… Chuyện nào tôi cũng phải nghĩ đến căng cả đầu để tìm lời can ngăn, khuyên nhủ và tìm hướng giải quyết cho ổn thoả. Đến giờ nầy (5 năm sau), ba Mẹ cô D vẫn còn chung sống hạnh phúc, và D thì lấy được người mình yêu

    Điều đó nói lên tấm lòng các Đấng xoay chuyển mệnh trần, đem đến bình an hạnh lạc cho những ai có lòng tin tìm đến, hướng về…

    Bàn tay của các Đấng không từ bỏ một ai, cho dù khác đạo! Đúng như lời Phật dạy: “Không có giai cấp khi máu người cùng đỏ, khi nước mắt người cùng mặn” – Thậm chí đến kẻ vô thần, tà đạo… chỉ cần mong muốn được cứu giúp, chỉ cần đưa bàn tay ra, bạn sẽ được dìu đỡ! Đương nhiên điều tối cần thiết là phải có lòng tin: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ bẩy được cả trái đất”. Lòng tin là động cơ, lòng tin cũng là cứu cánh!

    Aáy thế mà… Các bạn có biết điều bí mật nầy ở tôi không – Điều mà tôi giấu kín tận đáy tâm hồn, điều hoàn toàn nghịch lý với những lời dông dài mà tôi vừa nói ở


    trên: Tôi là kẻ “không có niềm tin” – Không có niềm tin cho chính bản thân!

    Chẳng ai cứu được tôi thoát khỏi cái Địa ngục mà tôi đang ngụp lặn, nếm trải nầy! Chẳng ai làm cho tôi hết đau đớn, trong khi bàn tay tôi lại cất đi nỗi đau cho biết bao người… Điều nghịch lý đó đã tồn tại và vẫn còn tồn tại suốt hai mươi mấy năm qua…

    Xin chuyển sang phần khác, kẻo không bạn đọc phải nghe tôi “ca cẩm” đến sáng mất!


    LIÊU TRAI (7)


    * Trước khi tìm thợ xây miếu thờ 2 tượng Mẹ, tôi đã xin phép Điển PB về chỉ cho địa điểm, vẽ sơ đồ, cẩn thận từng chút một – Bởi đối với tôi mọi sự đều lạ lẫm và tôi chưa hề có kinh nghiệm!

    Mọi việc đều tiến hành thuận lợi, mãi đến giờ phút cuối cùng, có một trục trặc nho nhỏ: Khi chỉ còn tô thêm mặt ngoài của bệ thờ (độ chừng 70 phân vuông). Cậu Long không thể nào xong được! Hồ trét lên rơi xuống ngay… Nghĩ: chắc là thiếu xi măng, L cho thêm xi măng, lại rớt!: “Hay do hồ khô quá!” – Thêm nước vào, tô lên lại rơi xuống tiếp… Gần 7 giờ đêm đói mờ cả mắt! Long vào nhà mượn cây quạt máy ra quạt cho chóng khô, cứ tô lên lại rơi xuống…

    Không chịu nổi nữa, Long vào bảo tôi thắp hương xin Phật cứu: “Có ai phá rồi, không tài nào làm được!” – Tôi xin Mẹ về trợ, Long tô lần nầy được ngay!

    Cậu em khéo tay có tiếng, làm thầu xây dựng, tình nguyện: “Để em xây cho chị 1 cái Miếu thực đẹp để chị thờ Mẹ…”. Cuối cùng bó tay trước vài mươi phân vuông tô vữa đơn giản nhất! Bàn tay vô hình án vào ra thế, các bạn thấy không?!

    Tượng Mẹ bốn người khiêng mới nổi, thế mà có 1 ngày tự nhiên rung lắc nhẹ như không! Cô Kh tới ngày vía lên lau rửa tượng thờ, la lên: “Cô ơi! Sao tượng Mẹ Diêu Trì rung dữ vậy!” Tôi cúi xuống xem xét: “Không hề có vết lún gạch hay đội nền, sờ cũng chẳng thấy đế


    dưới chân bị sứt mẻ chút nào – Tượng rung lắc do đâu?” Về sau tôi mới biết là điềm báo con trai tôi mất – Sau những ngày định mệnh đó, tượng cứng nguyên như cũ tự bao giờ chẳng biết…

    Con mất, tôi tụng kinh cầu siêu 49 ngày ngoài Miếu. Ngày nào cũng kêu vong con về quỳ lạy theo Mẹ! Có hôm trời mưa, nền xi măng ngoài sân ướt đẫm nhưng cháu vẫn quỳ – Thương con, tôi đem cái áo mưa trải ngoài sân để có chỗ sạch sẽ cho con ngồi lạy Phật… Tôi vốn nhát lắm, ngồi ngoài Miếu 1 mình thường vẫn sợ, nhưng nay biết có con ngồi sau lưng lòng Mẹ cũng an! Một phần xác, một phần hồn – Mẹ đây con đó… Thiên thu trong 1 tầm tay với mà với hoài không tới, nghe tiếng con mà mở mắt ra nhìn chẳng thấy con đâu…

    Tụng kinh được 1 thời gian ngắn thì xảy ra 1 chuyện: anh Ch (huynh trưởng Nhân điện) điện lên bảo tôi tìm hiểu xem tại sao 3 ngày đêm rồi anh cứ ớn lạnh rùng mình hoài, đến không dám tắm luôn! Anh kể trước đó 3 hôm anh đang ngủ ngoài phòng khách, mở mắt ra chợt thấy bóng 1 người đàn bà cao lớn tóc xoăn mặc đồ tang đứng trước mặt. Anh Ch sợ quá chạy vô buồng, bước ra xem lại thì không thấy nữa…

    Tôi xin Điển trụ thần nhìn, quả nhiên thấy một âm vong đứng ở cánh cửa bên phải nhà, giống y như lời anh Ch tả! Nhưng tôi thấy lại là vong nam – tóc dài xõa và uốn lọn xoăn như nghệ sĩ. Tôi nói: “Họ đứng đó, hai tay bắt chéo buông xuôi, có nghĩa là cầu xin chứ không dọa nạt gì đâu. Thôi anh đi nấu nước nóng tắm cho sạch sẽ rồi


    tụng 1 thời kinh cầu siêu giúp họ đi!”

    Mười lăm phút sau anh Ch hí hửng báo: “Nghe em nói anh lấy kim tự tháp ra trục vong ngay chỗ đó ra khỏi nhà xong hết ớn lạnh liền tức thời”… Nói chưa dứt lời, đã thấy âm vong đứng ở cửa nhà tôi rồi! Tôi nói: “Họ đến đây rồi, cúp máy để em ra nói chuyện với họ coi sao!”

    Có điều lạ mà tôi thường kinh nghiệm là phần âm “đánh hơi” tài lắm – Chỉ nghe qua điện thoại, thoắt đó đã lên tới chỗ tôi rồi…

    Tôi hỏi, âm vong khai tên Nguyễn Văn Sâm – người tỉnh Thái Bình, chết năm 47 tuổi – mất cách đây 2 năm rưỡi do bị “tình địch” thủ tiêu… Nhìn anh chàng đẹp trai tướng thư sinh bạch diện, 2 mắt to mơ màng, mũi thẳng môi son – tóc uốn dợn như “tài tử xi nê”, tôi nghi ngờ hỏi chận. Thì ra vong anh ta lúc sống làm nghề “mồi chài phụ nữ”… với bộ dạng nầy, khối cô chết mê , chết mệt đây!

    Tôi lại tra: “Sao công an người ta không điều tra cái chết của ông?” Vong nói: “Tôi bỏ làng vào Nam sống vô gia cư lâu rồi, chết đâu ai biết!” – Tôi khuyên vong mỗi tối về nghe kinh quỳ lạy cho chuyển tâm rồi tôi xin Bề trên cứu! Vong bằng lòng, rời đi!

    Chiều hôm sau, tôi đang đứng trong bếp làm thức ăn, chuẩn bị bữa cơm chiều. Có 1 cọng đậu văng ra khỏi chảo, nhác thấy ai đó chạy vào nhặt lên ăn, nhìn lại thì ra vong người đàn ông ấy! Tội nghiệp, tôi dọn cơm lên mời ăn… Chiều hôm ấy, chỉ có mình tôi ở nhà. Vong tên Sâm ngồi xuống, ngước lên nhìn tôi nói: “Cảm ơn cô!” – Vừa nhìn thấy 2 mắt xanh lè, tôi kinh hoảng tống cho 1 đấm –


    âm vong văng ra ngoài sân! Bước vào, hắn nói: “Thưa cô Hai, tôi đâu có làm gì mà sao cô đánh tôi?” – Tôi xin lỗi: “Tại ông nhìn tôi làm tôi sợ. Thôi ông cứ ngồi ăn một mình xong rồi đi, tôi ăn sau vậy nhé!”. Lúc đó tôi bị bế tim, gần như sắp xỉu, lê được vào buồng ngồi trụ thần thiền 5 phút xong cấp cứu cho mình mới tỉnh!

    Các phần âm vong ngạ quỷ hay yêu tinh, chỉ nhìn thấy đôi mắt của chúng là ta bị Điển âm đánh quỵ liền tức thời! Dạo mới bắt đầu chữa bệnh, tôi đã bị đôi ba lần như vậy – xỉu mất mươi mười lăm phút mới tỉnh… lúc đó thay vì chữa bệnh, lại thấy bệnh nhân giật gió, xức dầu cho mình…

    Về sau năng lực mạnh hơn, chỉ bị choáng váng, trống ngực đập liên hồi, mệt tim và khó thở chừng 5, 10 phút – tự mình cấp cứu cho mình là hết!

    Đêm hôm ấy, hồn tên Sâm về ngồi kế bên con trai tôi nghe Kinh… Tôi ngồi trong Miếu, 2 người ngồi ngoài sân, sau lưng tôi. Tôi tụng kinh mà cứ nghe thoang thoảng mùi thơm gì đó rất lạ, gần như mùi son phấn… nghi là trong thẻ nhang, tôi lấy lên ngửi – không phải! Mùi thơm nầy ở đâu ra?

    Tụng kinh xong, tôi hỏi con trai: “Con có thấy mặt thật của ông ấy sau khi chết không?” – Cháu nói: “Mẹ mà thấy là “ác mộng” luôn, khủng khiếp lắm!”. Tôi lại hỏi: “Con không sợ sao?” – “Sợ gì, con hay coi phim kinh dị còn ghê gớm hơn vậy nhiều! Mà Mẹ nè – ông nầy ổng điệu hết biết luôn, chết rồi còn xức keo vuốt tóc láng o, ngồi bên ổng thơm “nhức mũi”… Thì ra người sao hồn


    vậy! Chết rồi mà lòng trần vẫn chưa chừa!

    Tuy rằng vong là ngạ quỷ. Ngạ quỷ thì phải nhịn đói, chỉ được ăn ngày mùng 2 và 16, những ngày khác có cúng cũng không hưởng được (Đó là lời Mẹ giảng). Nhưng ở nhà tôi, hễ tôi mời thì họ ăn được! Vong tên Sâm ăn uống từ tốn, lịch sự – ra vẻ một “quý ông lịch lãm”, chắc còn sống lắm cô mê đây!

    Tôi tụng kinh – mỗi đêm đều xin cầu siêu cho hương hồn tên Sâm, xin Mẹ cho đi đầu thai chuyển kiếp! Được hăm mấy ngày tự dưng vong biến đâu mất 2 đêm liền, đêm thứ ba tới trễ, cũng ngồi xếp bằng ngoan ngoãn… Tôi liếc nhìn – ngạc nhiên: Sao hôm nay ông ấy to lớn dữ vậy kìa? Mọi ngày người nhỏ nhắn, thanh nhã mà… Mỗi lúc niệm Phật, tôi bảo “xá” thì hai người sau lưng chắp tay xá 1 cái! Nay ông ta chỉ ngồi im, hai tay chắp trước ngực như người Thiền định không nói gì… Tôi nhủ thầm: “Lát nữa tụng kinh xong phải nói mới được. Đến mà ngồi im thế kia thì đến làm gì!” – Nào ngờ vừa dứt tiếng Kinh, người đàn ông ấy bỗng phát một nụ cười mỉm, đưa tay vẫy chào tôi xong với tư thế ngồi xếp bằng ấy – cả người bốc bay lên cao, hóa thành tượng Thích Ca Mâu Ni đẹp lộng lẫy oai nghi – xa dần rồi mất hút… Tôi ngồi sững sờ mà rơi lệ!

    Thì ra vong hồn tên Sâm được cho đi đầu thai, còn tôi được thưởng công nhìn thấy Kim Thân của Phật…

    * Có một người đàn bà nghề làm rẫy, thuê phần đất lớn ở ấp 6 xã Đông Thạnh. Hôm ấy tới nhờ tôi giúp tìm hiểu xem trong nhà có gì mà cô ấy bệnh hoạn liên miên ngủ mơ toàn ác mộng! Vừa nhìn vào tôi biết ngay trong


    nhà có quá nhiều phần âm quấy rối: Hai mắt lạc thần, mặt mày xanh tái… Điều lạ là thấy có 1 người đàn ông mặt mũi hiền lành, tướng cao ốm, tay chân bắp cơ gò cứng, chứng tỏ là người luyện võ hoặc làm nghề lao động nặng! Tôi hỏi thì vong hồn ấy bảo mình là chồng của người phụ nữ kia! Tôi hỏi: “Chồng chị chết rồi phải không?” – “Dạ không. Chồng em còn sống nguyên!” – “Chị hai đời chồng?” – “Có một đời thôi, ông ấy vẫn còn sống!” Tôi tả người đàn ông: tứ thời hay mặc 1 quần cụt màu xanh dương đậm, áo thun không có tay – và đặc biệt là có 1 chân gỗ… Chị ấy gật đầu ngay tức thời: “Chồng em đấy! Cô tả đúng y người thật!”… Tôi ngạc nhiên, chả biết nói sao!

    Thấy ở chỗ chị có nhiều âm vong, tôi phải nhờ anh Ch – huynh trưởng lên hóa giải giúp. Ngày xưa năng lực tôi còn yếu – Mẹ không cho động đến vong hồn chiến sĩ (vì họ có đội ngũ và võ trang đầy đủ, sợ tôi bị vong đánh, làm không lại!)

    Sáng hôm sau tôi và anh Ch đến tận chỗ người phụ nữ làm rẫy để giải vong! Cả tôi và anh Ch đều sững sờ khi gặp chồng chị kia – nhân dạng y như tôi đã tả: cũng quần cụt xanh dương, áo thun ba lỗ, đặt biệt là cái chân cây!

    Từ xưa đến tận giờ, đây là trường hợp đầu tiên mà tôi biết: Người đang còn sống nguyên lại có thể xuất hồn đưa vợ mình đi xin cứu giúp! Tôi khéo léo dọ hỏi: thì ra trước kia anh chồng chị ấy là người dân tộc miền cao, biết võ nghệ và bùa phép – Hèn nào có thể xuất hồn!…


    * Mỗi trường hợp cá nhân, ở xa thì thôi. Nếu ở gần chỗ tôi, lâu dần đều trở thành tập thể! Tôi gần như thành “bác sĩ gia đình”, lại còn kiêm luôn “tư vấn tâm lý, hôn nhân gia đình, gỡ rối tơ lòng”… Mỗi chuyện của 1 gia đình có thể viết thành 1 chuyện tiểu thuyết nho nhỏ – Và nhiều chuyện tiểu thuyết nho nhỏ như vậy vẽ nên một nhân vật: “thằng Tôi”! từ cát bụi sinh ra, và ngày mai lại trở về cùng cát bụi…

    Tôi đã từng viết 1 bảng quy định để lại cho con, bảo khi nào Mẹ chết – hãy thực hiện y lời Mẹ:

    Không để nải chuối xanh lên bụng như tục xưa để lại (nặng bụng, đau bụng chứ ích gì!)

    Không cúng cơm! (Chỉ tổ đãi lũ ruồi nhặng)

    Khoâng ñaêng caùo phoù rình rang, khoâng ñaøn ca seânh phaùch…

    Chỉ cúng hoa trái: hoa huệ trắng hoặc lay ơn đỏ! Tìm thực nhiều hoa lài để kề bên. (Rồi mình sẽ hóa thành hương bay về cõi hư không)

    Quần áo đưa theo chỉ 2 bộ, đủ thay đổi!

    5. Đem nhục thể đi thiêu, về đưa ra biển – khúc nào trong xanh rải tro xuống nước ( nước đục sợ đau mình!)

    7. Ngày cúng giỗ, chỉ cần 1 mâm cơm chay, tránh bày biện và mời đãi đông người. (Sống chẳng cho ăn, chết làm văn tế ruồi!)

    Vậy đó! - “Sinh ký tử quy”. Ta lại trở về nơi đã từ đó ra đi, cõi nào chẳng biết! Trần ai là cõi tạm, luyến tiếc gì chút mộng phù sinh…

    Chợt nhớ, tôi chép vài bài thơ là lạ một chút, nói về


    những suy nghĩ “nghịch thường” của mình trong suốt thời gian bị “khảo đảo” – Xem như là mặt trái của tấm huân chương! Các bạn đọc xong rồi “thở khì” một cái, lật trở về mặt phải – để ngắm cái đẹp lóng lánh của nó, vậy nhé!


    MẶT TRÁI CỦA TẤM HUÂN CHƯƠNG



    BI KỊCH CỦA SỰ XÂM LĂNG TỪ THẾ GIỚI HUYỀN BÍ


    Tôi bị đuổi ra khỏi linh hồn mình Thành lũy cuối cùng bị công phá Đức Vua lưu vong, triều thần rục rã Dũng sĩ kỵ binh xếp giáo quy hàng…


    Ôi! Manh áo bào đẫm máu ba quân

    Mũ miện rơi mất rồi trên đường trốn chạy Nhà Vua khóc, đêm công thành lửa dậy Đâu một thời vàng son áo gấm chăn hoa!


    Loa – loa – loa – loa!...

    Ai bắt được Vua thưởng một ngàn nén bạc Ông vua trẻ với cái đầu lão nhược

    Khóc vùi bên ấn tín Tiên Vương!


    Tôi bị đuổi ra khỏi linh hồn mình Vương quốc cũ dành cho người mới

    Hoàng Thượng khờ, chưa một lần lầm lỗi Dại dột mời tên thích khách vào cung!


    Đó là cái giá của lòng tin

    Đặt nhầm chỗ – đêm trường bão lộng Tăm tối u mê, chán chường tuyệt vọng

    Vua còn đâu – Hoàng Thượng đã băng hà!...


    Tháng 3/1991


    LẦN BƯỚC


    Hãy nhìn lên nụ cười vĩnh cửu của Đức Phật Tìm lấy sự bằng an giữa cõi thế vô cùng Hãy nhìn vào đôi mắt Phật bao dung

    Tìm điểm tựa cho linh hồn chao đảo!


    Người quỳ xuống và dập đầu trước bệ Tôi đến đây không phải thế – ơi Người! Không muốn cúi đầu van lạy cầu xin Đấng Từ Phụ ban cho nhiều ân sủng!


    Tôi đến đây dưới chân Người – lẳng lặng Ngước nhìn lên chiêm ngưỡng – chỉ thế thôi! Ngàn ngàn năm… và mãi mãi muôn đời

    Sự hoàn thiện bao dung là cái đẹp!


    Và vĩnh cửu là nụ cười Đức Phật Dạ Từ Bi soi từng mảng đời riêng

    Dưới chân Người, xin một chút bình an Mai dời bước – Lại sóng đời vùi dập!




    Không tiếng kệ, không câu kinh, chuông mõ Không nén hương – xin thể chấp lòng thành Không tịnh chay, không giữ giới – kiếp trần Sao – cứ thế mà về bên chân Phật!


    Với trọn vẹn một linh hồn rất thực

    Không dấu che, không lễ vật cung nghinh Phật đài cao sẽ soi thấu lòng trần

    Người Chín Bệ không lạc lầm như ông Tạo!


    Nói dùm tôi – ơi Người! Công hay tội? Nên hư chi, thiện ác hỏi làm sao?

    Tôi đâu cần lời cửa miệng khen chê

    Tôi chỉ muốn tìm đường theo dấu Phật!...


    21/08/1991


    VÔ THƯỜNG VÀ BẤT TỬ


    Sự bất tử vẫn nghìn năm tồn tại Mặc bể dâu, mặc tháng ngày qua

    Người khép mắt, nghìn sau còn Thiền định Kẻ tráo trưng suốt kiếp vẫn phong ba Mây vẫn bay, gió nổi và sương sa…

    Lá vàng rụng, mùa tiếp mùa thay lá Sinh rồi tử, tử rồi sinh – cứ thế!

    Chu kỳ đời đâu làm động hồn thiêng


    Hãy cho tôi một chút xíu vô tình

    Trong tượng đá bao ngàn năm trầm mặc Một chút xíu thờ ơ trong ánh mắt

    Như nói nhiều – mà như chẳng nói chi! Nhân thế ơi – các người cứ cười đi Dẫu cuộc sống phù du như sương khói Dẫu hạnh phúc, vấp ngã và lầm lỗi Dẫu trái tim đầy giông bão xót xa… Tượng đá vẫn ngồi – và thời gian qua

    Người vẫn đến, ngắm nhìn và suy ngẫm Bao công trình nghiên cứu và tưởng tượng Người vẫn người, tượng đá vẫn thờ ơ…


    16/12/1991


    ÂN SỦNG


    Phải có những con người hy sinh Thì mới có những Thánh lễ

    Linh hồn được tôn vinh

    Sau sự đọa trầm của nhục thể! Hãy chịu đựng, ơi anh!

    Đừng kêu van – nầy bạn! Để linh hồn bay lên

    Vượt tầng tầng thanh khí

    Vòng Nguyệt Quế dành cho người không ngừng nghỉ Trả giá để mua: Hạnh phúc Cõi Vĩnh Hằng!

    Là ngày mai – (một ngày của Vô biên)


    Cẩn thận – đừng so đo tính toán Cái giá của cõi Thượng Thiên Đâu thể lấy dạ trần đong đếm

    Hỡi kẻ phàm nhân, tay ngắn vợi vô cùng!

    Thượng Đế chẳng gieo hạt giống Thiện ở đất lành Bởi trần thế không phải là Thánh Địa

    Hãy tự nảy mầm trên vùng đất dữ Tự nên cây sinh trái, để thành rừng! Rồi sẽ bay lên trời lớp lớp sinh linh (Có tài biến đen thành trắng)

    Thượng Đế vuốt râu cười và phán

    “Cho chúng mi thành Tiên” – Vinh dự thay kẻ phàm nhân! Để rồi mai đây tận một góc Thiên Đường

    Những chiếc bóng đi về với hào quang vĩnh cửu Những chiếc bóng nhớ nghìn đêm không ngủ Đêm thế trần cay mắt đỏ nhân sinh!!


    15/03/2002


    LỜI CỦA HƯ VÔ


    Người từ cõi sáng về đây

    Thế trần đêm tối, bão vây còn nhiều Ngàn dặm xa vẫn đìu hiu

    Tay Người độ lượng cầm gieo mệnh đời Đoá sen trắng đã tàn rơi

    Khóc ư! Vọng tiếng ai cười đêm mê… Bể sầu mạch cả nào khơi


    Chảy tràn, cho lạnh đất trời sang xuân Cúi đầu đếm những bước chân

    Bao nhiêu bước nữa ly trần, hởi ai? Tìm hư vô nắm bàn tay

    Vẽ lên Nhật Nguyệt tháng ngày huyễn không Hương Trầm thắp giữa mùa đông

    Tàn đêm, khơi ngọn nến hồng giải oan Nầy cát bụi! Đợi mùa sang

    Trời cho mũ áo xênh xang về chầu Biển xanh còn đợi ngàn dâu

    Thiên thu đợi một giấc sầu – ai hay!...


    14/11/2002


    KẺ HÀNH HƯƠNG ĐƠN ĐỘC


    Tôi bị buộc phải chấp nhận cuộc chơi Không khí giới và chẳng cần nghi lễ

    Không diễn văn chào mừng – chẳng có ai đón đợi! Chỉ có một con đường – Tiến chứ không lui!

    Chẳng có văn bản giao kèo nào ở trong tay Tôi bị bịt mắt dẫn độ vào cõi sống

    Với một tên gọi hẳn hoi – một cấu thành định mệnh Cõi hằng sinh cười khóc một thằng tôi!

    “Cuộc Hành Hương đâu phải để rong chơi *

    Để mang hài gấm và bước đi trên thảm Là gót mỏng, chân trần trên cát nóng



    * Lời của Điển Ngài Độc Giác Phật


    Qua chông gai, sỏi đá – vực thẳm và bóng đêm” Hãy tự cày xới đi mảnh đất trần dương

    Hãy gieo hạt – và tự mình chăm bón Sẽ có ngày nỗi buồn thành sức mạnh Cây nên rừng, trái ngọt để đời sau!

    … Người gục đầu bất lực, xót đau Kẻ Hành Hương đơn độc!

    Những ân phúc trời cao dành người khác Đêm đông dày, lạnh một góc đời riêng…


    Tháng 10/2000




    ĐỘC THOẠI


    Trong căn nhà êm vắng lung linh khói hương bay dường như chứa đựng âm ba của cõi vĩnh hằng – với những tượng thờ oai nghi trầm mặc, với những ánh mắt Từ bi, như ban phát cho tầng tầng cõi thế giấc mộng huyền sinh…

    Tiếng con thạch sùng tắc lưỡi trên cao tưởng cũng khẽ khàng như sợ làm động cái khí trang nghiêm ở chung quanh. Ngoài kia tán lá che mát vuông sân, gió nhẹ lay hoa trắng rụng đầy… Thanh tịnh bình yên, an nhiên và tĩnh tại – cơ hồ như chẳng có gì bất trắc xảy ra, hồ như giông bão cuộc đời chưa hề có mặt! Thế sao tận giữa lòng người không có sự bình yên? – Chừng như đâu đó ngoài kia cơn giông chực chờ kéo đến, chừng như dâu bể đường trần vẫn


    rình rập trên mỗi bước chân qua…

    Nầy hỡi những sinh linh mang hình hài tạo tác bởi bàn tay của các Đấng Vĩnh Hằng – Các mi đã làm gì nên nỗi? Điều gì ẩn chứa đàng sau những sắc màu khoác vội bên ngoài, điều gì dấu che trong nụ cười lạc điệu – Trong ánh mắt thờ ơ mà như chứa đựng cả sương khói vô thường trong ấy?!...

    Mi tìm gì ở cõi thế phù vân? – Quỳ trước Đấng Quyền Năng mi cầu nguyện những gì? Một chớp mắt suy tư thiền định là bao dấu luân hồi, một trang trải muộn phiền dài đến bao lăm??

    Bức tranh toàn cảnh ấy phải chăng là chưa nhất quán? – Làm chi có An bình, Tịnh lạc ở giữa chốn trần ai, tìm đâu sự bằng an giữa linh hồn sóng gió! Mây trắng chiều sương đi về phai màu tóc, mùa qua mùa “Lạc hoa tương dữ hận”, còn đâu!...

    Giấu đi tiếng thở dài tự sâu kín tâm tư, ta mở cửa đón thế nhân tìm đến – Giấu nỗi đau đời mình đàng sau khói hương trầm dâng tiến, mượn tay Đấng Thiên Toàn cho sự sống khai sinh. Để rồi đêm đêm bên gối lẻ cô phòng, giọt lệ chảy vào trong thầm lặng. Ta giấu cả chính mình, chôn vùi bao xúc cảm, trầm luân cõi thế còn bao?!...


    27/11/2003


    VỊ ĐẮNG VÔ THƯỜNG


    Ngọn đèn vĩnh cửu vẫn cháy Trong ngôi miếu phi thời gian Những đoá hoa phai hương Còn nguyên màu rực rỡ!

    Gió đi qua, khẽ khàng Thả rơi vài xác lá

    Tưởng cũng phi thời gian… Lá nằm yên – ngẫm nghĩ Cõi Thiền kia có, không?!

    Và những Sứ giả của Thượng Đế

    Người nghĩ gì sau vầng trán mênh mông?


    Ngoài kia mưa còn rơi Bao giờ hết mùa bão loạn Những linh hồn cõi tạm Đau vùi, chưa vơi!!...

    Đem Vĩnh hằng đặt để giữa trần ai

    Vị đắng vô thường có làm cay mắt Phật? Có rẽ lối bể dâu vẫn nao cồn sóng lạc Tấm áo luân hồi ai khoác buổi sầu vương…

    Nghiệp thế còn mang, sao vội trách Hoá Công Tâm cứ loạn – vọng trần làm sao xoá?

    Hành Thiện đi, bớ con người vị ngã! Cõi Vô Vi chẳng chứa kẻ u mê

    Biến nỗi buồn thành sức mạnh hôm nay Nâng thế tục từ bàn tay giá lạnh


    Hoa sẽ nở, và mùa xuân lại ấm Trên môi cười … tha nhân!

    Ta trở về khơi bếp lửa mùa đông Sưởi nhành Vô Ưu bất lực

    Nghe trái tim thét gào trong lồng ngực Nỗi buồn cộng phân!

    Khoác áo vô thường – đợi đến phong vân Dấn bước lưu sinh mà tầm câu Phúc Lạc Gieo những mùa vàng trên nền bất trắc Mai xuân hoà ngồi hát khúc Đông phân…


    03/12/2003


    MÙNG TÁM THÁNG TƯ


    Hôm nay là ngày Mùng tám tháng tư – ngày Phật đản sinh! Thay vì tìm đến cửa Thiền, những nơi tôn nghiêm với đầy đủ lễ nghi phụng chúc, thì tôi lại ở đây – Trong ngôi Miếu nhỏ, lặng lẽ ở một góc đời xa xôi, mờ khuất – với một chút hoa và một chút hương!

    Tấm lòng có thế, và sự vọng tưởng cũng chỉ được chừng ấy! Chẳng chờ đợi vọng cầu, không chúc tụng tôn xưng… Nhìn lên ảnh Phật cũng như đang suy tư trầm mặc. Người nghĩ gì hỡi Đấng Cứu thế Từ bi? Người có nhìn lên không để thấy chúng sinh đang trầm mình trong lớp lớp mê đồ, màu giả tạm đang che mờ ánh mắt! Ngọn đuốc Huệ Người nhen tự mấy nghìn năm, nay từng trải mê phong Người cất giữ nơi nào?


    Lãng đãng khói hương trầm dâng tiến, ngẩn ngơ chiếc lá xa cành. Vĩnh cửu đây – mà vô thường cũng là đây…

    Sự an lạc Người ban, nhân thế ai người thọ lãnh, Cội Vô Ưu nở bao cánh hoa Đàm?... Có một ngày khai sinh thế thế thường hằng, cho Đại Đạo hoằng khai chuyển dời tứ hải… Lối dâu bể còn in trên nếp sầu thiên cổ, vị trầm luân nhuộm trắng sắc trời xanh! Cái lẽ vô thường mãi chẳng tỏ thông, được mất cứ dần xoay nay cười, mai khóc!

    Tôi là ai trong cõi người ngơ ngác, lạ mặt nhân gian sớm tối đi về - Những đêm thế trần cứ thế dài trôi, chẳng nhìn thấy phía chân trời ánh hồng Đạo cả!

    Hôm nay, như một tia chớp lóe lên tận chốn mù mù tăm tối: “ngày Mùng tám tháng tư!” Có một hồi chuông nào đó trỗi lên tận cùng mê thức, con người ta mới tự nhận ra: hình như mình vừa qua lớp ngủ đông dày dặc, chợt cuống quýt trông nhìn trước mặt sau lưng… Hình như chiều đã sang rồi, đêm vĩnh hằng sắp đến! Có kịp chăng để cho ta làm một cái gì đó cho mình và cho người?! Có kịp chăng khi ta muốn hướng về cõi Tịch lặng An nhiên nào đó – Ngoài cái cõi Sinh Tử luân hồi cứ như một trò chơi may rủi nầy?!

    Quỳ dưới hình tượng Đấng Chí Tôn tôi lặng lẽ nhắm mắt, đợi chờ một sự “Mặc khải”! Liệu rồi sáng mai đây, khi ánh ngày lên soi sáng tận cùng ngõ hẹp – hay lúc mưa giông mây xám giăng trời, có còn tìm thấy một góc thuyền Bát Nhã bập bềnh trên sóng trần ai?!

    Thôi thì mượn ba nén hương dâng, những mong


    höông khoùi moûng manh kia seõ keùo daøi hôn phuùt giaây voïng nieäm: “Muøng taùm thaùng tö”…


    26/05/2004


    Hình như chúng ta lạc đề mất rồi, thôi xin mời các bạn cùng tôi trở về lối cũ, xuôi ngọn mê phong mà nương nhẹ khách hồng trần… Để rồi mai mốt đây cuối ngọn triều dâng, dẫu có xuôi tay cũng còn điểm trên môi nụ cười mãn nguyện…


    THỰC HÀNH CỤ THỂ (7)


    * Tôi có người quen tên H, cô ấy bán rau cải ở chợ Hiệp Thành – Người có căn Tổ nghiệp nhập, khi nhập vào thì hút thuốc như kéo bể và ăn trầu, ợ ngáp suốt… Nhưng được cái là vẫn tỉnh táo, bình thường! Cô H cũng làm Thầy pháp, khi cần thì hương khói đội vải đỏ nhập đồng, múa may quay cuồng và làm phép khoáng nhang, rảy nước…

    Lâu lâu, khi bị hành, bị phá bởi những tà cao tay ấn, cô H vẫn tìm tới nhờ tôi xin Mẹ về giải cho… Có lần nọ cô giúp 1 cậu làm nghề trồng rau, bị vong anh ruột nhập vào! Cậu này bị đã mấy năm rồi, nay đau mắt, mai đau ruột, mốt đau đầu… Nằm BV hàng tháng là chuyện thường!

    Cô Huệ “Tôn Bát Nhang” thờ Cửu Huyền, xong án phép không cho vong vào nhà – Trong một tuần lễ liền cứ hể đêm tới là vong người anh lại về than van trách móc, năn nỉ, rủ rê đứa em trai – Người em thương anh bước ra khỏi nhà, vong lại nhập vào…

    Người anh xưng mình là Thánh, muốn học nghề chữa bệnh để cứu nhân độ thế, cho người em đau là cốt để vào BV học phép cứu người! Có điều kỳ lạ mà ai chưa thấy không thể nào tin: vong nhập vào, người em nằm ngửa dưới đất, tay chân đưa lên trời – chỉ co duỗi các cơ ở lưng mà đi được 200 mét, lúc đó có nhiều người chứng kiến chuyện này!

    Cô H không thể làm cho vong rời đi hẳn, tới năn nỉ


    tôi trợ lực… Thời gian đó, tôi đang bị rối loạn tiền đình rất nặng: chóng mặt xây xẩm buồn nôn… Những lúc như vậy, thì mọi vật chung quanh cứ quay cuồng, thần trí không trụ được!

    Nể cô H, tôi tới nhà! Lúc đó vong đang nhập xác trần, lăn lộn đánh võ, trồng chuối ngược và la lối như người điên! Có điều lạ là hai mắt cứ nhắm tít như vậy – lại lăn lộn ầm ầm trong căn nhà chật hẹp mà không làm đổ vỡ thứ gì chung quanh. Tôi ngồi xếp bằng hồn tỉnh xác mê, cảm nhận mọi sự nhưng tay chân đầu óc quay cuồng rũ liệt, tứ chi không chịu theo sự điều khiển của não.

    Cô H la lên: “Chị – xin Mẹ Quan Aâm về đi chị!” – Tôi sực tỉnh chắp tay xin… Điển về thì vong quỳ trước mặt tôi lạy lục, khóc van xin Mẹ tha tội cho – Chỉ 2, 3 phút sau tôi lại rơi vào cơn lạc thần, vong điểm mặt tôi chửi mắng không tiếc lời! Tuy nhiên không dám đánh hay làm gì tôi. Có lẽ vẫn e dè sợ Điển phạt… Phải nói buổi sáng hôm ấy là cực hình lớn với tôi: phải chịu ngồi im nghe vong sỉ vả đủ điều: - “Bà lừa tôi, bà giả Mẹ bà tưởng tôi không biết hả…” Khi tôi trụ thần lại được thì vong quỳ lạy van xin – Cuối cùng tôi chịu thua, bảo cô vợ của xác người em mua mực tàu về vẽ hình chữ Vạn trên lưng trong vòng 1 tuần đợi tôi khỏe rồi tính tiếp!

    Ấy thế mà cậu trai đó hết bị vong quấy! Hơn nửa tháng sau tới tìm tôi: “Em xin chị giúp – Dạo nầy trong người em nóng như có 1 lò lửa thiêu vậy! Ruột gan thì nôn nao không làm được việc gì cho ra hồn, cứ bứt rứt vật vã, trong người làm sao đó!”


    Cậu thanh niên lấy thuốc ra hút, tình cờ tôi thấy giữa lòng bàn tay có hình chữ Vạn. Tôi bảo xòe 2 tay cho tôi xem: “Ai vẽ cho em đây!” – “Vợ em, hôm đó chị bảo em vẽ trên lưng, chị Huệ biểu vẽ trên 2 bàn tay cho chắc ăn!” – Tôi phải giải thích: “Đây là phép của nhà Phật, cần tuyệt đối thanh sạch thì mới thiêng! Chị bảo vẽ trên lưng, lại còn phải tắm rửa sạch sẽ thắp nhang xin nữa. Bàn tay của mình làm đủ thứ chuyện không sạch sẽ, em chưa bị Điển hành cho điên khùng đã là may!” – Tôi xin xả phép và xin lỗi PB Quán Thế Aâm – Từ đó cậu thanh niên ấy hết hẳn…

    * Có lần một người P.N tên H nhờ tôi giúp chữa cho con trai của mình, tên Qu – 22 tuổi! Cách đấy 3 năm bắt đầu bị tâm thần, đã chạy chữa nhiều nơi nhưng không khỏi…

    Tôi rủ cô Huệ, cô hứa trưa mai 1 giờ sẽ đi cùng tôi! Đêm ấy, thầy Hải Thượng về nói với tôi: “Thằng bé ấy sắp chết rồi, con không giúp được gì đâu - Đừng nhúng tay vào kẻo bị đòn nặng đó! Bà ấy tạo ra nghiệp chướng, giờ tới lúc trả nghiệp rồi, Thượng Đế cũng không cứu được!”

    Trưa hôm sau, vì lỡ hẹn với chị H – Tôi cùng cô Huệ cũng đi, tôi có thắp hương xin phép Mẹ Quán Aâm…

    Sang nhà chị H, tôi xin phép đi ra sau rửa tay – Ngang qua 1 căn buồng tôi thấy bên trong có vong 1 người đàn ông ngạ quỷ cao lớn, bệ vệ đang nằm trên giường! Tôi hỏi, chị H cho tôi biết đó là phòng của ông già chồng, đã bỏ không 3 năm nay từ khi ông chết…


    Tôi xin phép Mẹ trợ, còn cô Huệ thì đốt nhang khoán cho vong nhập xác cậu Qu. Một lúc sau vong về, cậu Qu nói lảm nhảm lúc mê lúc tỉnh – Cứ ôm siết lấy Mẹ, 2 bàn tay lần sờ mó và xoa nắn 2 bên ngực người Mẹ… Lúc đầu tôi nghĩ: “Cưng con kiểu gì hăm mấy tuổi còn “sờ ti” Mẹ!” – Về sau, trụ thần nhìn – tôi thấy ra vong của… ông già chồng!

    Tôi chợt hiểu toàn bộ sự việc, đêm qua Mẹ về nói với tôi: “Người đàn bà đó có tội loạn luân trên bọc trong dâu” – Chị H thì nói với tôi: Ông già chồng hồi xưa nổi tiếng đẹp trai, nằm trong giới xã hội đen về cá cược đua ngựa – Có 49 đời vợ… Lúc chị H về làm dâu, sinh con ra được đúng 3 tháng thì chồng chị lặng lẽ bỏ nhà đi vượt biên, không 1 lời từ biệt – Hơn hai mươi năm không 1 lần trở về thăm lại vợ con!

    Nhìn người đàn bà đẹp như Tây – da trắng má đỏ môi hồng… Dễ gì thoát khỏi đôi mắt của ông già háo sắc 49 đời vợ!

    Và… bánh xe định nghiệp ngừng quay khi đứa con trai của chị H chết, gần 1 tháng sau ngày chúng tôi đến nhà… Người cha có trở về thắp nhang cho con, đưa con ra huyệt mộ xong rồi lại lặng lẽ ra đi…

    Chị H ở lại trong căn nhà vắng vẻ mênh mông với hai phòng đầy đủ tiện nghi luôn luôn khép cửa, ôm di ảnh của con, chị nghĩ điều gì?...

    * Có một lần, đang ngồi trong quầy báo, nhìn sang bên kia đường – trong dãy “chợ tự phát”, tôi thấy 1 phần âm đang ẩn trong xác 1 người đàn ông tuổi dưới 40. Điều


    lạ lùng là hồn và xác giống nhau như hai giọt nước – cả quần áo mặc trên người lẫn tuổi tác, mặt mũi nhân diện…

    Thấy điều lạ, tôi đi qua đường, hỏi cô Huệ đang bán rau ở gần đó – Cô H bảo đó chính là em trai của cô – Và âm hồn tôi thấy là anh trai mình. Anh cô bị bệnh tiểu đường và chết năm 37 tuổi – Chết đã 14 năm, điều trùng hợp là năm nay cậu em trai cũng tròn 37 tuổi…

    Cô H đưa em trai lên nhà tôi – Cậu em bị phần âm khuấy mãi gần như bệnh thần kinh, khi hiền khi dữ, lúc lên cơn thì rất đáng sợ!

    Tôi đã gọi âm vong về – khuyến Đạo, khuyên nên vào cửa Thiền tu để chuyển nghiệp, đừng theo quấy phá em mình nữa. Vong đã bằng lòng!

    Tôi bày cho cô H mua hương hoa đưa vào Chùa, tôi xin Mẹ cho chuyển vong – Gia đình cô H từ ấy đến nay bình an trở lại…

    * Cô Huệ làm ăn giỏi, chỉ một hàng rau cải mà nuôi được 2 con, mua được đất – xây nhà lại sắm được xe máy… “Bốc ngắn cắn dài” nợ nần vây bủa, cô H thường xuyên vay tiền của tôi, tôi vẫn vui vẻ cho mượn, nếu số tiền lớn tôi không có khả năng, tôi về vay gia đình em út cho cô H mượn!

    Một lần cô H đến lúc 8 giờ đêm, bảo tôi đi vay cho cô 800 ngàn đồng, tôi hứa sáng mai 8g00 tôi sẽ đi vay dùm cô, số tiền lớn ấy tôi không có!

    Sáng hôm sau, tôi về vay đứa cháu gái 1 chỉ vàng, hẹn mấy ngày nữa trả theo lời cô H… Vàng bán được 850 ngàn, tôi mang ra tới chợ đưa cả cho cô H.


    Sở dĩ tôi phải kể lể dài dòng cùng các bạn về một chuyện bình thường như vậy,vì tôi muốn nhấn mạnh cho thấy xác suất của hệ Nhân Quả mà theo ông bà ta xưa là “vay một trả mười”…

    Người ta gieo một cái nhân nhỏ, tưởng chừng đơn giản, suy nghiệm ra cái quả lại lớn lao vô cùng! Cô H không trả tiền lại cho tôi! Trong lúc đó con tôi vừa mới chết, nợ lại ngập đầu – chuyện nầy cô H biết cả… Tôi đành năn nỉ cô: 1 chỉ vàng tôi chịu, chỉ mong cô mỗi tuần trả cho tôi 50 ngàn để tôi đi chợ – ấy thế mà có tuần ra 4, 5 lần không lấy được tiền! Trong 1 thời gian khá dài, tôi chỉ lấy được 500 ngàn – mỗi lần tới cô H xem như tôi là kẻ tống tiền, sụ mặt kiệm lời, khiến lòng tôi rất nặng nề…

    Hôm đó ức quá tôi bỏ luôn số tiền còn lại, định viết tôø giaáy ñöa coâ H – ñaïi yù nhö theá naày: “Coâ laø người có nghiệp Tổ nghiệp Tông, cô về hỏi lại thầy Tổ xem coi xử sự với tôi như vậy có đúng không”… chỉ nghĩ vậy thôi, tôi không viết gì và bỏ luôn số tiền còn lại!

    Chưa đầy 1 tháng sau, tôi thấy cô H đẩy xe ba bánh đi bán dạo, quầy rau sang cho người khác! Cũng không đầy 1 tháng nữa – lại gặp cô H đạp chiếc xe đạp cũ kỹ đi bán vé số – Một thời gian sau thì biến mất tăm…

    Lâu nữa – tôi chữa bệnh cho 2 vợ chồng người em cô H (người đã kể vào đoạn trước) Tôi nói: “Cô H gặp khổ nạn là do có lỗi với thầy Tổ, nói cô H biện hoa trái mà xin lỗi thầy Tổ thì mới được bình an!” Em cô H bảo với tôi: “Chị H bây giờ bỏ chồng con đi mất, nghe đâu có điện về bảo đang ở lột tôm mướn ngoài Hàm Thuận. Chị

    bảo gia đình đừng đi tìm vì chị bị thầy Tổ phạt, khi nào hết bị phạt chị sẽ trở về!”

    Nay đã 4 năm, cô H chưa một lần về lại thăm chồng con! Thế là tan nát một gia đình… Lòng tôi đau xót quá, chỉ biết cầu nguyện ơn Trên: “Lỗi tại con mà cô H ra nông nỗi. Nếu con đừng oán thán thì cô H chẳng bị phạt nặng nề đến vậy! Xin Mẹ giải nghiệp cho cô H được trở về với gia đình”…

    * Nhiều lần như vậy, nếu có ai đó làm điều ác với tôi để cho tôi uất ức, than van là ngay lập tức họ bị báo ứng, rất nặng nề… Mãi rồi tôi sợ đến nỗi lòng dặn lòng: “Quên đi, không nghĩ tới nữa. Kẻo không họ bị phạt trả quả thì mình phải tội!”

    Các bạn hãy thông cảm cho tôi, tôi kể cho bạn nghe những chuyện nầy không phải để chứng tỏ rằng mình tài giỏi hoặc là được Bề Trên thương chiều! Chủ ý là muốn cho bạn đọc thấy con đường đi của Nghiệp Quả – mà với bàn tay mầu nhiệm của các Đấng, được dời đổi, dịch chuyển ngay tức thời và rất đáng sợ khi “gieo một, gặt lại đến mười”. Giống như trước đây tôi có nghe đĩa CD của Thượng Toạ Thích Chơn Quang, người giảng có 1 đoạn đại khái như thế nầy: “Một tên trộm vào 1 nhà nọ để ăn trộm, bị chống trả bèn đâm chết ông chủ, chạy trốn mất! Chẳng may gia đình ấy chỉ có 1 tay lao động chánh là người đàn ông đó, nuôi vợ bị bệnh tim và 3 đứa con nhỏ…

    Chồng chết – người vợ lên cơn đau tim, rồi cũng chết theo – Mấy anh chị em đứa đi bán vé số, đứa làm gái, đứa bỏ nhà đi mất… Thế là hỏng cả một thế hệ. Tên


    trộm lấy được số tiền nho nhỏ nhưng hậu quả lại lớn vô cùng!”

    * Ngày xưa tôi có đứa em gái thứ tư, mất lúc 6 tuổi (năm 1973). Từ lúc biết ăn dặm đến ngày mất, chỉ có nước tương với đậu hũ, không cách nào bắt em ăn đồ mặn được! Chúng tôi gọi là: “Con nhỏ tàu hũ nước tương”.

    Em mất do bệnh ban cua (bây giờ gọi là sốt xuất huyết). Uống thuốc vào nói sảng, hát hờ hát hỏng rồi ngủ luôn, không bao giờ trở dậy nữa!

    Thương em, sau nầy sinh ra con gái, biết bé cũng là phần linh căn như dì Tư – tôi lấy tên Chi của dì đặt cho cháu… Gia đình Má và các em tôi phản đối rất nhiều vì sợ “có huông”, nhưng không ai cản được tôi!

    Ngày trước, dạo còn thích chơi Bàn Cơ, những khi bị vong Ngạ quỷ về phá thì rất sợ – Họ nói bậy bạ, thậm chí chửi thề – nói tục mà chẳng dám lấy bàn tay ra khỏi Bàn Cơ. “Con trỏ” lúc đó làm bằng đồng tiền xu, khi có phần âm nhập vào thì ngón tay như bị hít chặt vào đó – và đồng tiền lạnh như nước đá, tạo cho ta cảm giác sợ hãi!

    Những lúc như vậy, chúng tôi chỉ cần kêu “Thánh Cô Chi – em về cứu chị mau!” – Là em về, vong sợ chạy mất tiêu!

    Năm 1997 – nhà nước xoá chòm mộ có mả em, gia đình bàn nhau hốt cốt đưa vào Chùa thờ! Tôi không chịu, nhất định đưa em về nhà: “Má không thờ thì con đem về nhà con thờ” – Tôi xin PB, người về cho ngày giờ bốc mộ… Mẹ còn dặn: “Ở nhà con nấu 1 mâm cơm chay rước vong. Khi tới nhà, chính con phải bước ra khỏi cửa rước linh cốt, không ai được tự động mang vào!”

    Tôi làm y như vậy – Đêm đó vừa tắt đèn chuẩn bị ngủ, tôi thấy em về đứng đầu giường nói với tôi: “Ơn chị thờ nhục thể của em ba năm em trả đủ – Em sẽ xoay chuyển cho chị có nhà cửa đàng hoàng!”

    Về sau, Ba Tí Ti về xui Má tôi bắt tôi phải đem cốt vào chùa: “Thờ ở nhà vong quậy tan nát hết!” Má tôi nghe lời, lại bảo tôi đưa đi – Tôi vẫn nhất định không chịu!... Tối ấy, em về nói với tôi: “Em chẳng qua chỉ vì chút duyên mà xuống trần với Má và chị em; chứ thực ra chẳng có bà con gì, Má xử thế nào em chẳng màng!”… Em giận rồi đây! – Tôi năn nỉ nói chuyện tình lý một hồi em mới nguôi lòng ra đi…

    Đúng như lời em nói: Tôi đổi cho Má 120 mét vuông đất dưới chợ lấy miếng đất trên nầy: Aáp Đông xã Thới Tam Thôn – Xây nhà mới và dời về ở! Mọi sự tưởng chừng bình ổn, không ngờ phát sinh rắc rối đủ điều – chuyện nầy tôi xin kể bạn nghe vào chương sau!

    Khi xem sách phong thuỷ, tôi có hơi lo lắng; cuộc đất mới của tôi nằm trong cung “tuyệt mệnh” – Xin PB về cho ý kiến PB nói: “Đó chính là chỗ mà ta chọn cho con dừng chân. Ta muốn nơi đó trở thành một Phật Thất Đường!” – Tôi thưa: “Con không muốn - Bé Chi mới có 5 tuổi; 2 đứa lớn 14, 16 tuổi, nhà lại nghèo, nếu cho các con ăn chay – chúng nó không lớn nổi. Bản thân con cũng chỉ muốn hành Thiện chứ không chuyên trì Tu niệm!” PB không nói gì, cho mời một vị thầy Phong thuỷ về dạy tôi cách xoay chuyển nhà cửa…


    Vị thầy ấy nói: “Hướng sinh khí của tuổi cô là Đông Nam, nên để một mét bên hông nhà để đón khí thanh, trồng 1 cây to có bóng mát để cản sát khí và tìm mua dây Tóc tiên (một loài có lá nhuyễn, có hoa nhỏ màu hồng) cho mọc che hàng rào phía trước để thanh lọc khí!” – Trong nhà từ cửa cái đến buồng, bếp… các loại cũng đều do thầy vẽ… Từ ngày ấy trở đi, tôi ứng biết về phong thuỷ: Chỉ nhìn 1 cuộc đất hoặc 1 căn nhà nào đó, tôi đoán vận mệnh của những người trong ấy không sai! Có lẽ Mẹ đã cho chuyển cái thần của phép phong thuỷ vào trong tôi, để tôi có thêm phương tiện mà trợ thế…

    Ngày đầu tiên tôi xin phép thượng trang, sực thấy một vị Thần giáp trụ vàng rực bước vào nhà nói 1 câu: “Lộc phẩm chi nghi - Thần Tài giáng hạ!” – Tôi đem ghế mời ngồi, Ngài nói: “Căn nhà nầy chỉ sau vài năm nữa là phát, cây Lộc phẩm đến lúc trổ hoa rồi đó.” Nói xong – người cung tay chào 1 cái rồi biến mất!

    Cô Huệ (người mà tôi đã nhắc tới ở đoạn trước) tới nhà chơi, bày tôi phải cúng chiêu đãi phần âm và trả tiền âm mua đất cho âm vong chủ đất các đời, nếu không họ phá không cho mình ở!

    Tôi nghe lời bạn khuyên cũng bày ra cúng, nhờ cô H biết lễ xin dùm! Lúc đó cô H đang đứng cầm hương khấn cúng, tôi thấy có rất nhiều âm hồn tới nhận lộc, trong đó có vong chiến sĩ…

    Cô H tự nhiên đứng sượng trân đỏ mặt tía tai xong rồi vất hương chạy mất - Tôi hỏi thì cô nói: “Mấy vong chiến sĩ nhào vô sờ mó em, em sợ quá mới bỏ chạy!”… Bà


    Thầy pháp còn phải sợ vong hồn chiến sĩ – và tôi, tôi cũng sợ!

    Mẹ Quán Aâm về dạy tôi: “Đừng có đối đầu thách thức với họ, họ mà đánh lén thì mình khổ lắm đó! Họ là tàn binh của chế độ cũ, thua cuộc bị truy đuổi cùng trời cuối đất nên họ phẫn hận, sẵn sàng làm điều ác, lại trang bị đầy đủ vũ khí trong tay, họ mà tiến công thì người trần nạn tai dồn dập và thê thảm lắm!”

    * Cô Kh (Người tôi đã kể vào đoạn trước) có một người hàng xóm. Cô Ph có 1 Điện thờ ở Thủ Đức, nghe kể là thiêng lắm! Ngày vía tới 1, 2 trăm người, cô phải đứng từ sáng tới 2, 3 giờ chiều - mỗi tháng cô làm ra 400 triệu đồng, đem giúp người nghèo khó và trợ cho những chùa ở vùng sâu vùng xa ít Phật tử hỗ trợ…

    Kh rủ cô Ph lên nhà tôi, cô Ph không đi! Một buổi trưa Ph đang nằm ngủ, nghe Mẹ Diêu Trì về gọi: “Dậy mau! Thay đồ đi lên nhà cô Lan mà lạy Mẹ!”

    Hai cô lên nhà tôi. Nhìn vào mắt, tôi biết phần căn đã về – Hỏi: “Linh căn là ai vậy!” – “Dạ con là cát bụi, con đâu có là gì đâu… Để con múa chầu Mẹ cho cô L coi nghe!” – Thế là cô Ph múa hát – điệu múa oai phong, hát cũng rất hay, y hệt như 1 cô Đào Võ vậy!

    Hát một hồi, tôi hiểu: khi là tích Bùi Thị Xuân, lúc Trưng Trắc, lúc lại là Triệu Thị Trinh. Giọng hát Bội pha Hồ Quảng – Gần 1 tiếng đồng hồ tôi và cô Kh xem mà mê! Tôi xin Điển Mẹ về hỏi thì ra cô Ph là xác Thánh Minh Nữ Cô, người giữ và phân phối Lộc thực của Mẹ Diêu Trì - hèn nào mà cô giàu có vậy! Cô lấy ra xấp vé


    số 100 tờ, rút ngay 10 tờ cho tôi và Kh…

    Tôi hỏi cô Ph có thấy Mẹ về hay không, Ph nói: “Có chứ, không có con đâu hát chầu Mẹ!” Rồi cô nói: “Cô Lan có thấy Rồng chầu ở nhà cô Lan không? Đầu Rồng nằm ngay dưới Bệ Thờ Mẹ, cái đuôi nằm tít ngoài cửa rào kia kìa! Mẹ đâu có cho cô L bán đất nầy mà đi – Mẹ đã chọn nơi nầy để cho cô trụ lại rồi, cô có muốn bán cũng không được…”

    Cô Ph ra về, tôi cũng ngồi thần ra đó, lòng buồn rười rượi… Kẻ giàu sao giàu quá, người nghèo lại nghèo đến vô cùng… Mẹ có biết những đứa con mà Mẹ chọn lựa để trao cho quyền bính và tài lộc, họ đã sử dụng để làm gì không? Bao nhiêu người nghèo khó được ân cứu, và ai kẻ vinh thân phì gia, vàng đeo ngọc dát – đi xe 4 bánh và nói chuyện trên trời??

    Mẹ đã từng bảo với tôi: phần Linh Căn cho xuống trần Hành Đạo và cứu nhân độ thế bị mê đắm bởi lục trần dẫn đến đi sai đường, hành sai nẻo! Có muốn truất lộc phẩm cũng phải chờ cho có người thay thế – Kẻo không bao nhiêu Tín đạo lấy ai dìu dắt, ta giác ngộ họ rồi buông cho trở lại đường Tà đành sao!

    Tôi là con của Mẹ Quán Aâm – Hạnh Quán Aâm là hạnh khổ nhục, xem tích Quan Aâm Thị Kính thì biết – Mẹ xưa oan khuất trùng trùng, làm con của Mẹ phải chịu nghiệp oan như Mẹ! Cố lên cho tròn quả vị, kẻo thiếu Hạnh Bồ Đề…


    NGHIỆP THẾ TRẢ VAY (5)


    Nhà vừa xây xong 3 tháng rưỡi đã xuống móng, người ta xây nhà kế bên, nền bên ấy vừa xong – nền nhà của tôi sụp xuống cứ như “lâu đài trên cát”! phải lo tiền mua gạch mới, lát nền, đầm nền lại… Một thiên gạch ống vừa giao lúc chiều đếm lại còn có 750 - sau nầy tôi mới biết tên thầu thi công đã bắt tay cùng chủ VLXD để ăn chặn vật tư!

    Nhận nhà đúng 01 tuần thì máy nước cháy, phải thay máy khác! Có ai nghe mà tin cho được: chỉ 1 đường ống nước đơn giản của 1 căn nhà cấp 4, làm đi làm lại những 5 lần, bồn cầu sập 3 lần – Bồn sứ tráng men cao cấp bị hư cần gạt, mỗi lần dội nước cũng mỏi cả tay…

    Mãi đến giờ phút nầy tôi mới tin có thuật Phong thủy và Tử vi! Số tử vi của tôi: năm 2000 không nên dời đổi, xoay chuyển nhà cửa – “lợi bất cập hại!” Hướng Tây Nam so với với tuổi của tôi là hướng tuyệt mệnh, trăm điều bất lợi… Cho dù có trồng cây cao bóng cả để chặn khí xấu hay rào dây leo xanh, có để hướng Đông Nam để đón sinh khí cũng chẳng ăn nhằm gì! Ở đây gió đồng lồng lộng thổi mỗi chiều – mùa bão giông cả mái nhà run bần bật mỗi lần gió lốc đi qua…

    Người xưa có câu “tận nhân lực mới tri thiên mệnh”

    Tận nhân lực rồi, tôi mới biết mệnh trời chưa qua được… Căn nhà như có ác thần, đóng cửa đi ra ngoài thì nhẹ nhàng, chỉ cần mở khóa vô nhà y như bệnh đau chực chờ kéo tới! Mỗi ngày tự kiểm chứng lại, tôi bị chừng 5, 6


    chứng bệnh cùng 1 lúc là chuyện thường – Mãi rồi tôi cứ thấy rùng mình khi phải trở về căn nhà của mình, nơi tự lúc vừa hoàn thành, tôi đã ngỡ là mái ấm bình yên…

    Ở được 1 năm, tôi bị 1 người thanh niên say rượu kiếm chuyện đập phá lung tung trong nhà, Mẹ con chạy tứ tán mỗi người nấp vào 1 xó… Chuyện nầy tôi cần kể tường tận cho các bạn nghe – Bởi vì trong đó có bàn tay huyền nhiệm của Ơn trên xoay chuyển!

    Nhỏ em Út của tôi lên chơi, lúc về xe máy đạp hoài không nổ. Cậu Th nhà bên đang lúc say liêu xiêu bước tới, chẳng nói gì đưa tay nắm cái xe định giúp, nhỏ em sợ quá vứt xe vừa la vừa chạy – chỉ có vậy mà Th chạy vào nhà đập phá tan hoang! Lạ một điều như có ai che chở: cửa kiếng như vậy mà sức thanh niên cường tráng như Th đạp hoài không vỡ, trong nhà những thứ giá trị còn nguyên – chỉ vỡ mấy cánh cửa lá sách nho nhỏ, 2 cây đèn Néon, bình hoa và lư hương… Nước dơ và đất cát đầy nhà!

    Cậu Th nổi tiếng cả xóm nầy như một “trùm khủng bố” _Ghiền rượu, mỗi lần say xỉn thì vô phúc cho ai chọc giận: Th đập phá tan hoang nhà cửa, qua ngày hôm sau lại mượn rượu về quậy tiếp… Không ai dám ứng cứu nhà bị nạn, mọi người rón rén đóng kín cửa trốn - im thin thít!

    Công an có bắt lên xã, chỉ 1 giờ đồng hồ sau đã thả về. Vài căn nhà ở gần Th – gia chủ sợ quá bán nhà đi chỗ khác, chỉ còn lại tôi không có chỗ đi về…

    Hôm đó – sau khi CA bắt 1 giờ, cậu Th được thả ra, có người đưa về bằng xe máy đàng hoàng! Hai đứa em trai và 2 con tôi đang đứng nghe ngóng, cậu Th đi qua


    cầm con dao phay thật to dứ dứ: “Tao đi uống rượu lát về tao làm thịt bây hết cho coi!”

    Tôi sợ quá vào thắp hương trên bàn thờ khấn xin Mẹ về cứu – Ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì cũng oan uổng nếu đổi mạng với thằng say…

    Th về, đi xăm xăm vào nhà tôi! Đột nhiên quỳ xuống lạy bàn thờ, chắp tay xá tôi xin lỗi: “Con bị bệnh tâm thần mà, cô Lan tha lỗi cho con, cô chữa bệnh dùm con đi!” Th quỳ lết giữa nền nhà đầy đất cát và mảnh kiếng vừa khóc vừa xin - hàng xóm bu lại, nín thở ngồi sau hàng rào nhà bên theo dõi, ai cũng ngạc nhiên vì sự thể lạ lùng…

    Sáng hôm sau, cha cậu Th về, chẳng hề bước qua han hỏi một tiếng! Tôi tức quá xế chiều qua nhà gặp cha Mẹ Th. Cậu làm ly nước chanh bưng lên mời tôi, vốn trước đây anh chị của Th là học trò của tôi nên gia đình cũng quý! Nói chuyện một hồi, rốt cuộc tôi lại chữa bệnh cho cha cậu Th và … huề!!

    Qua ngày sau nữa, tôi gọi Th sang hỏi: “Hôm qua nhìn Th – cô thấy có 1 âm vong ngạ quỷ nhập vào khuấy phá! Một đứa con trai tuổi độ 16, 17 da ngăm đen – mũi cao, tai dão mặc áo thun 3 lỗ màu đen, người nầy con có biết hay không?” Th đáp ngay: “Là anh con - thằng Mỹ đó!” Phần vong lúc ấy đang đứng tựa cửa nhìn sang, tôi mời qua nhà, hỏi lý do tại sao lại khuấy phá mọi người như vậy. Vong nói: “Mồ mả ông bà bị động, phân bò phân heo các loại bẩn thỉu quá chịu không được nên con mới nổi điên con quậy”… Hỏi lại, Th nhận là bán đất cho


    người ta làm trại chăn nuôi, phân bò heo chảy đầy mồ mả ông bà!

    Tội nghiệp âm vong, tôi mua bánh trái cho ăn, mỗi đêm lại thắp hương cầu xin Mẹ cho âm vong và cậu Th đổi tính, thuần lương trở lại!

    Sau, có lần Th đang lên cơn đập phá nhà cửa tan hoang, tôi cầu xin Mẹ về: “Mẹ ơi về cứu đi, của cải làm ra khó mà Th nó đập tan hết rồi còn gì – Mẹ về trói tay lại không cho nó quậy nữa, Mẹ ơi!” Gần như ngay lập tức cậu Th không đập phá nữa, quay lại thắp hương quỳ lạy bàn thờ PB xin lỗi và khóc…

    Từ đó trở đi, Th đổi tính hẳn – Trong một thời gian rất dài không thấy tiếng tăm, giống như bốc hơi đi vậy – Làng xóm yên ổn, bình lặng hẳn!

    Th nghe lời tôi, làm cửa rào và đập bỏ thanh trụ chống ngay chính giữa hàng ba nhà mình, đưa vong người anh vô chùa…

    Hai năm sau ngày quậy phá ở nhà tôi, một buổi trưa nọ cậu Th đột ngột mở cửa bước vào nhà tôi, cũng với dáng vẻ đang say rượu! Tôi thất sắc: Nó lại muốn quậy gì nữa đây? – Nào ngờ Th nói: “Lúc nãy con đi qua nhà cô thấy Mẹ Quan Aâm đứng ngoài cửa nhìn con ra dáng buồn trách lắm! Con nhớ lại chuyện hai năm trước con xúc phạm cô Lan nên con qua xin lỗi cô lần nữa!” Tôi nói cho có chuyện: “À! Mẹ Quan Aâm đứng trong Miếu đây phải không?” –“Không phải, con thấy Mẹ đứng ngoài cửa rào kia kìa, y như người bằng xương bằng thịt vậy đó!” – Đúng là chuyện lạ…


    Đối diện nhà tôi là chuồng nuôi bò sữa của nhà ông D. Đủ thứ chất ô uế từ bên ấy văng cả sang nhà tôi, mùi hôi lan theo gió đến ngộp thở. Tôi than thầm: “Đúng là chạy ô mồ mắc ô mả!”… Mẹ Quán Aâm về nói: “Cố chịu đựng chút xíu, chừng nửa năm là họ dẹp chuồng bò” Tôi hốt hoảng xin: “Mẹ ơi, đó là chuyện làm ăn của người ta, Mẹ cho phép triệt người ta phá sản tội nghiệp lắm!” PB nói: “Đâu có, họ làm ăn khấm khá dời chuồng bò đi chỗ khác chứ có gì đâu!” – Quả nhiên chỉ nửa năm sau, bà Mẹ vợ của ông D ở quê lên, tôi chữa cho bà hết bệnh đau thần kinh toạ – Bà Mẹ về nói với con: “Cô Lan chữa bệnh từ thiện không ăn tiền, lại thờ Mẹ Quan Aâm tụng kinh niệm Phật, để chuồng bò ngay cửa nhà cô mang tội!” Thế là ông D xây tường cao bít kín chuồng bò, tôi thoát được 1 nạn!...

    Bên hông nhà tôi là nhà anh Chín. Cả nhà 15 nhân khẩu, anh Ch làm nghề đi nhặt phế liệu – ngày nào cũng đốt mùng mền, dây điện… Các thứ! Khói lên đen nghịt cả xóm, khí đốt hít phải là bị bế phổi không thở được! Đã thế lại “đi đồng” tự do dọc theo hàng rào nhà tôi, hố xí trong nhà dẫn chảy ra ngoài dùng nước phân tưới rau quả… Ban đêm – vừa nhắm mắt đã giật mình vì tiếng nước chảy ào ào, 15 nhân mạng – chỉ cần mỗi người “xả” 1 lượt tôi đã thức trắng đêm!

    Mùi hôi thối đến ngộp thở, lợm giọng! Cả đêm đóng kín cửa lại mà chịu… Tôi thường xuyên bị bế phổi khó thở

    chất 2, 3 chiếc gối dựa đầu cao để ngồi chịu trận cho hết đêm…


    Sau, chịu không nổi nữa tôi dời Miếu cùng 2 tượng Mẹ đi để đăng bảng bán nhà! Bán mãi vẫn chẳng ai mua…

    Tháng 7/2007 – ba bé Chi bệnh, đi nằm BV 175 và giải phẫu dạ dày! Vợ ông ấy điện về cho tôi: “Anh Hai sau khi giải phẫu tỉnh dậy giật tung hết các dây dẫn truyền, la thét om sòm rồi giờ đang hôn mê, cái bụng chướng to lên – chắc là sắp chết rồi. Chị xuống mau lên em sợ quá!” – Mười giờ đêm Mẹ con tôi tới BV, tôi xin Ơn Trên về cứu mạng ông H!

    Sau khi tôi chữa bệnh cho ba bé Chi, tình trạng của ông bình ổn trở lại…

    Sáng ngày hôm sau, tôi phát đau chiếc răng cuối hàm dưới, nơi chỉ có 1 lỗ châm kim nhỏ xíu và xưa nay chưa hề đau nhức lần nào… Đau cho đến nỗi như có ai đó cầm sợi thần kinh rút kéo từng hồi, mỗi lần siết lên đến như mưng cả óc!

    Tôi đã từng có 3 đứa con, người xưa bảo: “Không có cái đau nào cho bằng đau đẻ!” – Tôi sanh 3 lần không ai nghe một tiếng rên – ấy vậy mà chỉ đau 1 chiếc răng tôi đã bò lê trên giường, rên siết cứ như sắp chết đến nơi rồi vậy!

    Ti – con trai tôi về (lúc đó tôi đã hết đau) nghe kể lại, cháu nói một câu “lịch sự” như sau: “Tại Mẹ sức khoẻ yếu nên đau 1 tưởng ra 10, chứ đau đến vậy thì chết

    – sống sao nổi!” – Hôm sau cơn đau lại phát y như cũ – bé Chi gọi anh về, thằng nhỏ chỉ nói gọn một câu: “Thực là kinh khủng!”


    Thế rồi, ngay lập tức Ti chở bà Ngoại đi tìm nhà thuê cho tôi ở – Sáng hôm sau “áp tải” tôi bỏ nhà ra đi, chịu bỏ tiền thuê nhà hàng tháng để “trốn nghiệp” không cho tôi chữa bệnh cho người – để khỏi bị đau thế hoài như vậy…

    Thế là tôi bước sang một giai đoạn khác! Ba bé Chi thì được ra viện chỉ sau 8 ngày, với vết mổ dài 1 tấc và 2, 3 lỗ nhỏ bên hông – BS khen bệnh nhân nầy sức khoẻ đề kháng cao, da thịt lành tính, bệnh án “lủng bao tử” phải nằm viện nửa tháng - Ông ấy chắc là người đầu tiên ra viện sau 8 ngày… Ông H có biết đâu để đánh đổi lấy sự “lành tính” cho ông, tôi đã đau nhức như đã kể ở trên những 12 ngày chẵn, chỉ để giữ cho con còn có người gọi một tiếng: “Cha” hờ!

    * Gắn chiếc bảng “Cho thuê nhà” ngoài ngõ, tôi không ngờ mình đã “vẽ đường hươu chạy” – Bệnh nhân lại lần theo số điện thoại tìm tới nhà mới: “Chị có xuống địa ngục em cũng đi theo!” – Ti về gặp tôi chữa bệnh, chỉ biết lắc đầu ngán ngẫm, nói với Ngoại: “Mẹ con hết thuốc chữa rồi!”…

    Về nhà thuê, tôi lại lâm vào “khổ nạn” mới: nạn nhà “ổ chuột”! chuột cống chạy ngang dọc, có lúc đứng lại nhìn ta như đang đánh giá “thực lực đối phương”, hai con mắt tròn xoe nửa như rình rập, nửa như doạ nạt…

    Mẹ con tôi sợ chuột có tiếng, lúc đó chỉ biết leo lên giường nín thở… rình lại chuột!

    Mái nhà thấp lè tè, nóng đến muốn chảy mỡ, mưa lại thành “sân trượt patin” – Nhà sát hè đường, nửa đêm


    tiếng xe máy còn gầm rú đinh tai nhức óc – Con đường rộng thênh thang làm tiêu điểm cho phe “yên hùng xa lộ”, thấy mà thương!

    * Vừa cúng cơm Thượng trang thờ Mẹ (lúc nầy tôi chỉ còn giữ 2 tượng Mẹ Quán Aâm và Mẹ Diêu Trì, mỗi tượng cao chừng 3 tấc!) Có thêm 1 tượng Chuẩn Đề bằng gỗ – Tượng khắc nhữnh cánh tay bằng gỗ và khuôn mặt thực sống động và oai nghiêm… Trời đổ cơn mưa lớn, dột nát bàn thờ – Vài hôm sau, tôi đang nằm nghỉ trưa chợt nghe “rầm” một tiếng, toàn bộ trên bàn thờ Phật đổ xuống đất, tượng Phật rơi ngổn ngang…

    Tôi đứng ngẩn ra, suy nghĩ: “Lạ lùng thực, nếu có con chuột chạy cùng lắm thì rơi 1 tượng đàng nầy đổ cả 3 tượng với cả tấm hình Phật Bà thật lớn để ở trong cùng, lý do làm sao vậy?”

    Điều lạ lùng thứ hai: Hai tượng Phật bằng gốm sứ và tượng Chuẩn Đề chỉ gãy 2 cánh tay, tôi mua keo dán gắn vào lại vẹn nguyên như cũ - mặc dù rơi cách mặt nền gạch hoa hơn 1 mét chiều cao…

    Nhà thuê không có cống ngầm, cứ xả ra bao nhiêu nước thì bơi đủ bấy nhiêu, mùi tanh hôi khó chịu liên tục xông vào nhà. Chịu hết xiết, tôi lại đi tìm thuê nhà khác – Với chiếc xe đạp Martin, tôi lang thang 3 ngày khắp hang cùng ngõ hẹp, từ phường Hiệp Thành, Tân Thới Hiệp rồi Tân Chánh Hiệp… Chẳng tìm được căn nhà nào vừa ý, giá nhà thì đắt như vàng! Ở đâu cũng đầy người, đầy bụi khói… sự loạn động ở những địa phương gần khu công nghiệp đến bây giờ tôi mới tận mắt chứng kiến – dường


    như ở đâu đó cũng đầy rẫy sự bất an. Tôi thì cứ như con gián ngày nấp ở xó nhà, không dám mon men ra đường, chỉ e trời sập trên đầu!

    Bệnh tật và sự căng thẳng thường xuyên của công việc làm cho tôi – Ngoài những lúc “lên gân” - trở nên như một quả bóng bị xì hơi, lơ ngơ lẩn ngẩn suốt ngày… Tình trạng đãng trí hoặc thiếu ý thức mỗi lúc càng thường xuyên hơn – Đến nỗi có ngày tôi làm cháy khét 2 chiếc nồi cùng 1 lúc!

    Con trai tôi về thấy thế bảo: “Mai mốt bán được đất có tiền rồi Mẹ thuê người phụ việc đi, chứ không chắc có ngày Mẹ làm cháy nhà mất”.

    Có khi tôi hỏi câu gì đó, Ti nói: “Mẹ hỏi con câu đó đúng 3 lần rồi!” – “Hình như con chưa trả lời Mẹ mà!” – “Con trả lời đủ 3 lần!”…

    * Đến một ngày, tôi tìm được 1 căn nhà ưng ý – giá lại rẻ! Mừng quá, tôi gọi điện cho chủ hẹn gặp để ký hợp đồng, tưởng chừng mình sắp thoát nạn trời đày…

    Tôi được gặp 1 ông sĩ quan cấp Tá – bác sĩ quân y: cao ráo, đẹp trai, trí thức! Sau một tiếng đồng hồ tiếp chuyện, ông ta bảo cho tôi ở không tốn tiền, chỉ cần thỉnh thoảng đi “uống cà phê” với ông cho vui thôi!

    Tôi quyết định ngay lập tức: “Tôi không thuê nhà nữa – Mời ông về cho!” Hắn đứng lên chào về, đột ngột ôm hôn vào má! Tôi tát cho 1 cái, hắn chìa má bên kia: “Tát thêm cái nữa cho đồng” - trơ tráo đến thế là cùng…

    Tên chủ nhà vừa ra về, tôi vô buồng nằm khóc đến lã người: “Mẹ ơi! Sao Mẹ lại đẩy con đến tận cùng sự tủi


    nhục đến thế nầy?...”

    Ba giờ sáng đêm hôm đó, Mẹ Nam Hải Liên Hoa về đứng đầu giường, ngâm tặng tôi bài thơ “Hoàn Ngôi”

    Người chẳng phân giải điều gì, chỉ chờ tôi chép lại xong cả bài thơ là biến mất… Mười ngày sau, tôi bán được đất, trở về đất cũ ở Aáp Đông xây lại nhà ở, bấy giờ tôi mới tin rằng “sỏi đá được hoàn ngôi!”. Xin chép tặng các bạn, để kết chương “Nghiệp thế trả vay”, tôi bắt đầu vào 1 đoạn đời mới!


    HOÀN NGÔI


    Muốn cho người khóc được cười Muốn cho sầu tịnh, cho vơi nỗi lòng Muốn nắng sớm, ghét mưa dông Người đi tứ hải thong dong cõi Người Muốn tan hoạ, Phước thêm bồi

    Hoa cười bướm hát bao lời thanh tao Trả công cho kẻ cần lao

    Ban Lộc cho kẻ lao đao phận người Đem vinh đổi nhục cho rồi

    Đem duyên thù thắng đổi dời truân chuyên Lấy hoan hỉ đổi ưu phiền

    Lấy câu chúc tụng ban riêng cho người Xua tan bóng tối một đời

    Cho vầng dương rọi một trời phong quang Đem áo ấm đổi cơ hàn

    Đem vòng Nguyệt quế đăng đàn tặng ai

    Đền bồi cho kẻ trúc mai

    Cho người nguyện gánh hai vai nhân tình Canh khuya thao thức một mình

    Đem huyền cơ tỏ quang minh một lần Công cao, bổng lộc trả dần

    Đem áo gấm đổi cơ bần một phen Tràng phang, bảo cái tặng đền

    Pháp Luân thường chuyển, vinh danh giữa đời Tam đồ lục đạo chuyển dời

    Đoá sen trắng lại về nơi Liên Đài Tàn đêm – rạo rực chân ngày Dung nghi tỏ lộ, an bày hậu thân Ngựa xe qua cõi Phù Vân

    Trả người nửa kiếp bụi trần vương mang Đây Phật Ấn – nọ Bảo Đàn!

    Trả về cho khách hồng nhan – để rồi… Đem Pháp thí chuyển mê đời

    Lần trong mạt lộ dắt người thiểu căn Mai ngày nắng ấm, mưa xuân

    Dòng dòng Cam Lộ tưới nhuần duyên sau Tàn đêm, giúp trẻ giải sầu

    Nhẩn nha Mẹ hát vài câu ấm lòng Hết nắng lửa, hết mưa giông

    Tròn câu tâm nguyện, minh thông cận kề Tây phương – lối cũ con về

    Phật Đàn lại ngự, xác mê trả trần!...


    12/10/2007

    (Nam Hải Liên Hoa Phật ứng tặng!)


    THỰC HÀNH CỤ THỂ (8)


    Cháu Vũ (con trai bác sĩ Cự) bị xe tông trầy xước nhiều chỗ, bị tét phần cơ bắp chân bên trái, sợ cha Mẹ lo lắng, Vũ báo với gia đình là đi công tác xa nhà, rồi điện về cho tôi nhờ chữa gián tiếp… Tôi chữa cho Vũ 3 ngày sau thì cháu khoẻ, về nhà! Kiểm tra lại vết thương (cũng là gián tiếp qua điện thoại) tôi thấy bên trong vết khâu may còn dị vật, chất dơ… do quá trình cấp cứu chưa cẩn thận. Tôi bảo Bố cháu mở ra sát trùng và khâu lại. Anh kiểm tra thì đúng như lời tôi nói! Anh Cự là trung tá bác sĩ quân đội, anh có 2 bằng bác sĩ: cả Đông và Tây y – Trước làm trưởng khoa ngoại BV 175, nay về hưu chữa bệnh tại nhà…

    Anh có tay nghề cao, “mát tay phục dược” - cả hai anh chị đều phúc hậu, giúp người bằng tất cả tấm lòng của người lương y, ai khó khăn anh chị chữa bệnh không lấy tiền!

    Nhiều lần anh chị thử đưa bệnh nhân tới cho tôi chẩn, kết quả so với xét nghiệm, của bệnh viện giống y như nhau! Khi trong nhà có người bệnh chữa vài hôm chưa hết, anh chị lại gọi cho tôi, vừa uống thuốc vừa điều trị thêm bệnh hết nhanh hơn… Phần tôi, khi nào thiếu tự tin tôi lại nhờ anh thăm khám bằng phương tiện y học hiện đại cho những bệnh nhân có bệnh nặng!

    Tổng cộng là 30 người (từ bệnh nhân được chữa hết những bệnh lạ) –Đã tin và theo học Nhân điện! Hiện có 11 người chữa bệnh giỏi và phát triển về tâm linh cao…


    Nhận xét kỹ tôi phát hiện ra một điều: tất cả đều là phần Linh căn – và đến thời điểm nhất định, Ơn trên đã xoay chuyển để họ tìm đến đây, học tập và rèn luyện để rồi nhận một trọng trách – giống như tôi ngày xưa…

    Tôi đã được huấn luyện để làm “Người-dẫn-đường” như vậy đó! Diễm phúc cho những người đi sau là được có “người dẫn đường” bằng xương bằng thịt, để trong quá trình tôi luyện có kẻ đỡ nâng, che chở, có người “chịu đau thế”, xin tội thay… có người “đón ý Bề trên”, kiểm tra lại kết quả thực hành! Có người dìu bạn đứng lên những khi quỵ ngã, người lau giọt lệ đắng cay chua xót đổ xuống mệnh trần… Tôi thà gánh tội vào mình, chớ không để cho ai ức hiếp họ: những người chị, đứa em, đứa cháu đã tự nguyện bước vào con đường hành Thiện nặng nề và đầy bất trắc nầy – Để rồi vừa trả nghiệp trần, vừa đa mang gánh nợ tha nhân…

    Cháu Hương ngày trước tự nhiên bị sưng cứng cùi tay bên phải, đau nhức mà không rõ nguyên nhân… tôi chữa hết sau 3 lần điều trị. Vài hôm sau lại bị đau nhức hai vai, nặng đến giở tay lên không nỗi! Trong những trường hợp như vậy, nếu loại ra các bệnh chứng thông thường như: viêm cơ cổ, đốt sống cổ hoặc viêm tuyến bã nhờn, viêm cơ bậc thang v.v… thể nào nguyên nhân chính cũng là do bị Cửu Huyền hành!

    Tôi xin Điển về hỏi, quả nhiên do Tổ cô của Hương làm đau, cô muốn Hương theo học Nhân điện để làm thầy chữa - “Tương kế tựu kế” tôi bảo: “Nếu đúng như vậy, tôi không chữa cho H, Tổ cô làm cho hết đau tôi sẽ dạy H


    học chữa bệnh”. Chỉ 5 phút sau, H hết đau hẵn! Từ đó tôi mở luân xa, hỗ trợ cho H – Đến nay, cháu Hương đã học hết lớp 15 – chữa bệnh tốt và khả năng về tâm linh rất cao!

    Đã kể, thì phải kể cho hết chuyện! Mỗi một người học chữa bệnh là một gánh nghiệp choàng thêm cho tôi – Tôi phải theo họ xuyên suốt trong một thời gian rất dài, ba hay bốn năm là chuyện thường… Mọi người tìm đến tôi như một người “chị Cả”, trút tất cả hoạn nạn buồn thương từ định mệnh tiền căn, hậu kiếp đến tai ương trần thế… Những vấp ngã, lỡ lầm, tội lỗi… tin cẩn như nói với lòng mình! Và tôi có trách nhiệm phải dìu chị em bước qua vực thẳm, tới nẻo đường quang…

    Gần như một “quy ước bất thành văn”: bắt đầu bước vào đường Đạo là bắt đầu chịu “dồn nghiệp, trả nghiệp”. Hoạn nạn, tai ương kéo tới liên tục, chưa kịp tỉnh hồn đã chịu đòn kế tiếp, chẳng nhẹ nương…

    Nghiệp Tổ của cháu H là thầy bùa, muốn H mở tâm linh để giữ nghiệp nhà! H không chịu theo nghiệp Tổ phụ

    – thế là bị hành liên tục… Gần hai năm chưa ngã ngũ, nội một việc nầy tôi chiến đấu cũng mệt – Bởi đối với Cửu Huyền của người khác, tôi không được phép động chạm - xúc phạm tới họ là bị đòn nặng ngay tức thì! Chỉ được dùng trí mà hành xử cho khéo léo, sao cho Cửu Huyền tự nguyện buông tay, không đánh đòn con cháu nữa thì thôi…

    * Mở luân xa 100% vừa xong, phần Linh căn cháu H nhập về: đang quỳ lạy Phật trong Chánh điện chùa Long Thành, H cứ dập đầu xuống đất liên tục! Cô cháu chúng


    tôi vừa phải lo che chắn cho H, lại phải nói lý lẽ cho phần căn không hành xác nữa – Hỏi mãi chỉ khóc mà không khai danh tánh là gì…

    Một thời gian sau, có một âm căn về tiếp xúc với tôi trong bộ áo Nữ Thần, tự xưng là người của Mẹ Diêu Trì cho về để nhận H làm đệ tử và truyền phép cho độ đời… Tôi hơi ngạc nhiên vì bộ áo người đàn bà đó đang mặc trên người màu đen, nhưng cũ kỹ mờ nhạt – Tà chánh bất phân!

    Tôi ngầm nhắc khéo H: “Con tự quyết định, cô không có ý kiến gì! Và nhớ là cẩn thận, đừng vội vàng hấp tấp…” Vốn H là đứa hiếu chiến, hiếu thắng – Nghe được quyền phép giỏi lập tức đồng ý ngay! Chuyện nầy làm cho hai cô cháu tôi “dở sống dở chết” nhiều phen!

    Khi mở luân xa 100%, học viên nhân điện bắt đầu cảm nhận được các luồng sóng giao thoa vô hình từ các cõi (cả trên lẫn cõi dưới). Có khi luân xa tự quay, có lúc Điển thầy hoặc các Đấng về: Mặt đỏ dần lên, phần từ ngực lên đầu nóng sực, có cảm giác chao đảo nhẹ như người say sóng – mất thăng bằng (nhẹ) hoặc đau nhức hay nặng trì ở đỉnh đầu…

    Trong thời kỳ nầy, ta mới cảm nhận được sự có mặt của các năng lực Siêu hình – và mỗi người nhận được nhiều hay ít phụ thuộc vào tâm năng của bản thân! Cháu H mê lắm, cứ thích lui tới đền Chùa để cầu xin nhận Điển, mặc dù tôi đã khuyên răn nhiều lần: “Giai đoạn nầy là lúc “hổn quân hổn quan”, năng lực của ta còn yếu, tâm đạo chưa vững – Điển Thanh chưa kịp về khí trược


    đã đi trước rồi, lỡ bị tà nhập thì khổ lắm!”

    H bằng lòng nhận Điển của người đàn bà tự xưng là Nữ Thần – Từ đó bị nhiếp giữ phần hồn, xác trần ngày càng giỏi: nhìn thấy nhiều chuyện lạ, xuất hồn về quê nhà tận ngoài Bắc, sau điện về hỏi lại mọi sự việc đúng như in! có thêm hai vị thần Tổ nghiệp hỗ trợ – Những hiểu biết nhanh chóng làm cho H trở nên kiêu ngạo và thiếu thận trọng trong mọi việc… Thấy tính H hiếu chiến hiếu thắng, tôi chưa dám trợ cho lên cấp cao hơn. (Lúc đó H mới học lớp 7 đặc biệt). Chỉ e H ngã đường tà – với năng lực cao thì tác hại sẽ khôn lường cho nhiều người!

    Cháu H nói với các bạn: “Cô đố kỵ với tôi, cô thấy tôi giỏi không dám cho tôi lên lớp – sợ tôi giỏi hơn cô”. Thế rồi H khoe có bà Cô họ hứa dạy lớp 11, 12, 13 cho H… Đến gần tết năm 2007 nghe H bảo sẽ về Bắc và có thể không trở vào nữa, tôi định đưa H lên lớp, để về quê có thêm năng lực trợ cho đời. Nghe tôi nói, H thoái thác: “Để con về Bắc vô rồi học cô ạ!”…

    Tôi buồn rất lâu về chuyện nầy! Qua 1 thời gian khá dài, tôi đã dùng hết tâm lực của mình để dìu dắt, thế mà vẫn chưa chuyển được Đạo tâm của H. Mỗi chị em đạt được kết quả khả quan trong rèn luyện, khi đem kể lại – tôi đều hoan hỉ, sung sướng như nhau – Thêm năng lực cho người chánh là thêm nhiều bàn tay dìu đỡ nhân sinh, là bớt đi khổ nạn…

    Tất cả những gì tôi dày công nghiên cứu và thử nghiệm, tôi đem truyền cả cho các chị em để rút ngắn thời gian mày mò, tôi luyện! Không phải như 1 người


    thầy còn giữ lại “tuyệt chiêu” cho riêng mình, điều đó chưa đủ làm rung cảm tấm lòng của chị em hay sao?!

    * Một thời gian dài, H không tới tôi, chắc vì thấy tôi không còn gì để cho H học! Hôm ấy chúng tôi cúng rằm tháng 7 – Thường mỗi ngày rằm, ngày vía chị em tôi tụ lại nấu 4 mâm cơm chay dâng cúng Phật 1 mâm, 1 mâm cúng chư Thần Thánh, 1 mâm âm vong và 1 đưa sang Miếu Mẹ (hiệu dời qua nhà cháu Minh).

    Khi H qua tới – trời đang bắt đầu đổ mưa… Minh đùa giỡn không chịu mở cửa – Khi H vào được trong nhà, cô chỉ tay vào mặt M và nói: “Tao cho mày thức trắng 1 tuần lễ!” Tôi rầy: “Bạn bè giỡn chơi đừng có giận mà làm bậy không nên”. H gằn lại: “Con nói như vậy đó! Con cho nó thức trắng 1 tuần lễ”. Tôi bực mình, không thèm nói gì, quay sang lo chuẩn bị thức ăn…

    H đang đứng nấu bếp, bỗng dưng ú ớ gì đó trong cổ họng rồi đưa tay khua khoắng loạn xạ một hồi... Tôi ngạc nhiên: “Con nhỏ nầy đang làm trò gì vậy không biết nữa!” – Một lúc sau thì H bình thường trở lại, la lên: “Tao đuổi 2 thằng Tổ cậu của thằng Minh ra ngoài đường dầm mưa”. Tôi nói: “Người ta là Tổ cậu cũng nể một chút chứ!” – H lại nhấn thêm 1 câu: “Con cho chúng nó dầm mưa luôn!”… Một hồi sực tỉnh, sợ tôi rầy la H cắp nón đi về mất, không trở qua nữa…

    Hôm sau, H trách: “Lúc con đang đứng nấu bếp 2 Tổ cậu của anh Minh nhảy vào bóp cổ, con vời cô cứu, cô nhìn mà chẳng thèm nói tiếng nào!”. Thực ra, tôi có biết H nói gì đâu…


    * Hơn 1 tháng sau, H tới nhà tôi – Cả người xanh nhợt, lạc thần, tay chân run lẩy bẩy… H bảo cả tháng rồi tự nhiên không ăn, không ngủ được, người đuối lã chỉ được chực xỉu đi! Tôi tìm hiểu căn duyên sự việc, thì ra H bị bà Sư phụ hành xác, vì tội gì tôi cũng không biết! Lúc đó tôi giận quá, bèn xin Điển trụ về cho người đàn bà ấy hiện nguyên hình… Tôi thấy 1 phụ nữ trẻ đẹp độ chừng 40 tuổi, đội trên đầu 1 chiếc nón kiểu dáng rất lạ màu nâu xám, bên trong có nhiều sọc ngang, giống như những chiếc nan quạt, bước đến gần nhìn kỹ, tôi chợt rụng rời: một con rắn hổ mang bành! – thì ra là một con rắn tu luyện thành tinh…

    Tôi nói: “À, thì ra chính bà hôm trước nhập vào con

    H. hí lộng giữa nhà tôi! Lâu nay tôi không nói gì bà nghĩ rằng tôi sợ nên bà làm tới – Bây giờ tôi với bà đánh nhau 1 trận xem ai thắng ai thua nào!” – Nói xong, vía tôi thấy mình xông ra đánh nhau, y hệt như trong phim võ thuật, đòn mạnh như vũ bão đối phương trở tay không kịp, bị tôi tấn miết qua tới bên kia đường, đẩy té xuống hồ nước! Nhồi xuống hụp lên 3 lần, tôi nắm đầu kéo lên về bên nhà…

    Đây là lần đầu tiên tôi thấy mình hung dữ đến như vậy – Vía đánh mà xác run ơi là run! Sợ nhỡ thua xỉu nằm một chỗ thì sao?

    Thực ra – trong lúc thần vía của tôi làm điều gì, chỉ có tôi là biết! Mọi người chung quanh chỉ thấy tôi nhắm mắt lại tập trung suy nghĩ, nếu lúc đó có ai la lên một tiếng hay vỗ vai 1 cái – Chắc tôi đứng tim mà chết quá!


    Nhẹ thì cũng bị loạn thần, giống y như phim chưởng gọi là “Tẩu hỏa nhập ma”.

    “Sư phụ Rắn” lúc đó ngồi lết dưới đất mà rên, còn tôi cũng mệt muốn hết hơi! Tôi nạt: “Bây giờ ta tha cho – trốn đi cho xa, đừng để ta thấy mặt”. Con rắn làm nư: “Con đau quá, con đi không nổi!”. Tôi ngồi thần ra: “Làm sao giờ, chẳng lẽ rồi cõng nó đi?” Điển ông ra mặt: “Để ta giúp cô, ta đưa nó đi khỏi đây!” Ông phẩy tay 1 cái – con rắn biến mất!!

    Tất cả những chuyện hành xử như vầy, mọi người nhìn vào chẳng biết gì, chỉ nghe tôi nói lõm bõm vài câu, bằng vào kết quả là ngay lập tức mọi triệu chứng bệnh đau hết liền, hoặc tạm ổn… Có khi phần âm cao tay ấn, phép án vào mạnh – tôi phải giải vài lần mới hết hẳn!

    * Chuyện kể về cô H vẫn còn dài, các bạn ạ! Để các bạn thấy chiến đấu với loại tà cao tay và chiến thắng họ không dễ, qua nhiều lần và sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, tôi mới cứu H thoát khỏi bàn tay của kẻ ác!

    Sáng hôm sau, sau ngày tôi đánh con rắn hổ mang bành, khi giải phép tà xong – H ăn ngủ trở lại bình thường - còn tôi tự nhiên bị đau cổ họng! Đau nhức đến nỗi tắt tiếng, ăn uống gì cũng đau nuốt không vô – Người hết sốt lại rét, đầu váng mắt hoa nằm mê mê trên giường…

    Những lúc bị hành căn, tôi chữa cho mình chẳng tác dụng gì, và không thể nhờ ai cứu được – Thuốc men uống như uống nước lã vậy! Các chị em bệnh đã có tôi lo, phần tôi bệnh chỉ có nằm chịu chết!


    Hương qua nhà thấy vậy, chỉ biết ngồi khóc: “Con xin lỗi cô, vì con mà cô khổ!”… Tôi đau như vậy đúng 7 ngày mới khỏi – Vừa bị vụ ba bé Chi 12 ngày, nay thêm 7 ngày nữa, tôi xuống cân đúng 3kg, người liêu xiêu nhẹ như bông…

    Thấy chưa ổn, tôi nhờ anh Ch (huynh trưởng) lên hỗ trợ cho H! Anh Ch lên bắt và đưa “nữ thần rắn” về núi tu tập – Được có 10 ngày sau bà ta trở về, cho rắn hổ mang bao vây quanh nhà H. cô bé sợ quá chạy qua kêu tôi cứu… Anh Ch đưa sư Hướng tới giúp cho H – Chiều hôm đó khoảng 4 giờ, sư H để mõ lên đỉnh đầu H, xong cầm dùi gõ mõ tụng 1 thời kinh bằng tiếng Phạn.

    Tôi nhìn mà tội nghiệp cho H – đầu lắc lư liên hồi theo nhịp Kinh… Vía tôi thấy ngoài đường lớn lúc đó đầy rắn hổ mang bành, chúng sắp hàng quay đầu về phía cửa nhà tôi, ngóc cao cổ ứng chiến… Tự dưng thấy có 1 giải lụa màu vàng lướt qua đầu bầy rắn, 3 lần như vậy thì cả bầy gục xuống cả, không còn ngẩng đầu lên được nữa!

    Vòng đệm lót dưới cái mõ rơi xuống đất, sư Hướng để mõ trên đầu H gõ tiếp tục liên hồi cho đến khi H không còn lắc lư nữa… Sư H khuyên Sư phụ Hương đi theo Thầy về chùa tu – xong việc, tôi tặng sư Hướng tượng Phật Chuẩn Đề, pho tượng mà tôi quý nhất trong nhà! Đã hai lần Sư H nài nỉ xin mà tôi không chịu tặng, nay vì hy sinh cho Hương tôi đã tự nguyện cúng dường, chỉ cầu mong H hiểu cho lòng cô đã bằng mọi cách cứu đứa học trò lầm đường lạc lối của mình, mong cháu đứng cho vững, bấm chân mà đi theo nẻo Chánh, chớ lạc ngõ


    đường tà…

    Điển trong đầu tôi vẫn báo rằng mọi chuyện chưa


    an!



    * Bẵng đi gần 1 tháng, H lại chạy sang nói: “Cô ơi!


    Bà Sư phụ con lại về, cô xin Mẹ về cứu con đi”.

    Lúc đó, tôi đành phải để cho bà ta tiếp xúc với H. 1 lần - phần tôi đang bị “đòn khảo” nhừ mình, lòng muốn nổi điên…

    “Nữ thần rắn” nói: “Chúng ta là loài yêu tinh, trong tay ñaày pheùp thuaät. Boân ba naêm chaâu boán beå trong chôùp maét, vieäc gì phaûi quy thuaän Thaùnh Thần Tiên Phật làm chi – Để rồi tối ngày phải bái lạy quỵ quỳ, tụng kinh niệm Phật cho đau đầu mỏi gối! Nhìn cô Lan kia, tu hăm mấy năm nay được gì, đau bệnh tối ngày, miếng cơm không có mà ăn, nạn tai bất hạnh liên tục – có ai cứu cho không? Đi theo ta, ta truyền phép cho rồi lộc thực đầy nhà – can gì phải chịu khổ hạnh như vậy?”

    Phải nhận lời kẻ tà rất “có lý”, và lực tác động lên tâm hồn đang chao đảo mạnh vô cùng! Sáng ngày hôm sau tôi cúng cơm chay xin dẹp bàn thờ và thề bỏ Đạo (Đây là lần thứ ba tôi xin bỏ Đạo). Mấy chị em ai cũng khóc khi nghe tôi thắp hương nguyền xin làm người vô Đạo – “Kể từ ngày hôm nay!”…

    Sau khi cúng cơm, H cầu xin Mẹ về cứu H thoát khỏi bà Sư phụ ác độc. Lần nầy, Điển ông ngự về rầy H 1 trận dữ lắm, vì không chịu nghe lời cô Lan, cứ muốn được giỏi hơn người mà nên chuyện! Đi tới đâu cũng cầu xin “tiếp Điển” – giờ mới ra nông nỗi nầy, làm hại tới cô


    Lan… Ông bảo: “Trong vòng 3 tháng (từ hôm nay trở đi) cô H không được tới đây nữa – Cố gắng mà chịu cái nghiệp mình đã gieo đi! Sau 3 tháng tới Ta giải nghiệp cho…” H đành gạt nước mắt ra về!

    * Chuyện kể về cô H vẫn còn dài, xin các bạn cố gắng đọc cho hết, đây thực là một bài học lớn cho cả tôi nữa!

    Đi ngược thời gian về trước chút xíu - Dạo cuối tháng 9/2007! Từ vụ sập chân cầu Cần Thơ, làm chết rất nhiều người… Chị em chúng tôi đã tổ chức lễ truy điệu và tụng kinh cầu siêu 49 ngày cho các nạn nhân! Cô H và cháu Minh ở gần, buổi tối hay sang tụng Kinh với tôi – Phần âm kéo về rất đông, đứng chật cả con đường lớn, trật tự và ngoan ngoãn nghe Kinh – Có hôm trời mưa, nhà dột tôi không tụng, họ vẫn đứng ngoài đường lặng lẽ chờ! Thấy xót lòng tôi lại khoác áo, dâng hương…

    Hai đêm đầu tiên có H qua nhà, tôi ngồi tụng chừng 20 phút – tự dưng cái mõ điếc câm, gõ vào dội ra âm thanh như khúc gỗ mục. Tôi dừng Kinh xem xét… H không nói gì, cầm chiếc mõ để sang chỗ khác: “Hết rồi cô!” – Tôi gõ mõ, tiếng lại trong vang như cũ… Đêm thứ 3, tôi cẩn thận phủ trường đóng cửa không cho âm vong nào bước vào nhà – Tụng Kinh một chốc, tôi thấy phần căn của H nằm sát vách. Do bị phủ trường nên nó hiện nguyên hình, không biết là con gì: dài gần 2 mét, có 4 chân, hai mắt tròn xoe màu xanh biếc như hai hòn bi ve, trông bề ngoài thì giống con cá sấu, nhưng hai mỏ lại ngắn (Sau nầy nghe tôi tả lại, có người bảo là con kỳ đà!)


    Cũng không có nhiều răng lởm chởm như răng cá sấu… Nhìn sơ qua, con vật nầy có vẻ hiền lành, không có gì đáng sợ!

    Vía tôi thấy mình đưa dùi gõ mõ dứ dứ: “Nằm cho yên, phá phách là ta khỏ lủng đầu nghe chưa!” Con vật ấy nằm im, hai mắt mở to, tinh nghịch – y như đứa bé ranh mãnh giả vờ làm trẻ ngoan… Một lát, tôi thấy nó đưa chân khều khều cháu Minh đang ngồi kế bên, làm thằng nhỏ cứ ngọ nguậy hoài! Tôi bảo: “Hương qua ngồi bên kia, thằng Minh qua bên cô ngồi!” – Thế là con vật lấy chân vuốt ve dọc cột sống cháu H, ra chiều thương yêu âu yếm!...

    * Sẵn muốn tổ chức lễ truy điệu, tôi lập đàn phúng thí âm vong luôn! Đã làm lớn, phải tính toán cho cẩn trọng, nếu sơ xuất – âm vong tụ về đông phá khuấy hàng xóm chung quanh chứ chẳng vừa…

    Xin Điển Trên về dạy – Thần Nam Tào về nói: “Phải thật cẩn trọng, vong người hưởng được các thứ ta cúng, xem chừng còn đánh nhau để tranh đoạt, lại còn bao nhiêu là rắn theo cô H, chúng không ăn được tụ lại phá khuấy gây hấn lung tung, e chừng lợi bất cập hại”. Tôi hỏi: “Nếu như vậy, điều gì sẽ xảy ra?” – Thần NT đáp: “Dọc con đường sinh biến cố, nạn tai dồn dập – Có thể xe cộ đụng nhau, người sinh hung hãn, chém giết – hiềm khích, tranh đoạt, sinh sự lẫn nhau…”

    Tôi lo quá, nhưng cũng tự tin: khi biết tường tận, ta sẽ tìm cách hóa giải!hôm đó tôi cho Điển nhốt hết bầy rắn và linh căn của H. xong nhờ Thầy Tổ cho binh chốt


    chặn, xin Mẹ Diêu Trì cử Thiên Binh và Chư Thiên bảo an - mọi sự đều ổn!

    Nói chung – như ông bà xưa nói: “Trần sao âm vậy!” – Những cuộc lễ lớn thường phải có chính quyền chủ đạo và quân binh giữ an ninh, trật tự – Rút kinh nghiệm như vậy, sau nầy những khi lập đàn chiêu đãi âm vong, tôi vẫn xin Thầy cho Chư binh về canh gác, phòng xảy ra biến cố…

    Thầy của chúng tôi có nhiều binh lắm! Khi Thầy còn sống tôi chỉ thấy thầy về một mình, sau khi mất, Thầy về tới là binh theo về chật nhà! Tôi có hỏi thầy: “Họ là Thiên binh phải không thầy?” Thầy cười nói: “Không phải đâu – Là những linh hồn tiến bộ tự nguyện theo thầy độ đời đó thôi!”

    Thầy không nói cho tôi biết, ngầm cho 50 binh về án trong ngôi gia của tôi để trợ giúp! Gần đây (sau tết 2008)

    – Sư Hướng lên nhà tôi chơi, nói: “Cô Lan bây giờ giỏi quá! Trong nhà cô có binh của thầy Tổ nhiều lắm – Có Thiên binh, có 2 Chư Thiên – lại có Nhị thần Hộ Pháp trợ cho cô hành đạo độ đời nữa.”

    Nghi ngờ lời sư H, tôi xin cho chư binh trình diện, thấy có 13 Thiên binh y phục như quan tướng triều đình và 50 binh của thầy Tổ. Tôi cầu Mẹ Diêu Trì về hỏi, Mẹ bảo chính Mẹ cho về để bảo an trong ngôi gia của tôi – vì càng ngày càng nhiều ác ma, tà đạo cao tay ấn tìm tới, Mẹ sợ trong nhà tôi sinh biến động…

    Điểm lại thì thực đúng như vậy! Chỉ từ dạo sau tết 2008 đến giờ, các phần tìm đến nhà tôi đa số là yêu tinh,


    thần tướng, dạ xoa, ngạ quỷ – ít có vong bình thường – vụ nào cũng nặng nề và khó giải quyết!

    Điều lạ nữa là những người có phần Linh căn, đang làm chủ 1 Điện thờ nào đó: có người ở Thủ Đức, Bình Dương, Hóc Môn, Gò Vấp, Phú Nhuận… Mỗi người tới, Mẹ Diêu Trì lại về, kiên nhẫn khuyên dạy, vạch ra cho họ thấy ưu và nhược điểm của từng người, để họ sớm nhìn thấy mà sửa chữa (Đây là lời Mẹ nói với tôi).

    Trong các giới, tôi sợ nhất là những phần nầy! Mỗi một phần Linh căn xuống thế để tu tập hoặc độ đời, đều có khả năng và quyền hạn khác nhau, đa số đều giỏi và có biệt tài riêng! Tôi chỉ là 1 kẻ vô danh: Điện Thờ, áo mão cân đai không có - Lễ nghi, bài bản chẳng tỏ tường… Người nghe có khi không tin lại trách mình vì đố kỵ mà phê phán – Tôi cũng sợ xúc phạm đến các bậc cao niên!

    Khổ một điều khi Mẹ về phán điều nầy lẽ nọ, tôi làm sao dám can – nhưng miệng mình nói, tội mình chịu biết trách ai bây giờ?!

    Ngày xưa khả năng còn có hạn – các loại tà cao như vong chiến sĩ, binh gia, ngạ quỷ, yêu tinh tôi sợ lắm. Mỗi lần thấy họ là đã “thất kinh hồn vía” rồi! Đến giờ, ngay đến Thần Tướng mà sai đường, lạc nẻo quấy phá, nhiễu nhương – sau khi đấu trí, nói lý lẽ, nếu còn có ai ngạo mạn thách thức hoặc “ra đòn trước” khiến tôi nổi điên… thì tôi đánh tất chẳng chừa một ai… Có điều chỉ cần họ phảy tay một cái, là tôi có thể đau nằm trọn 1 ngày… ai nói là tôi không bị “trúng đòn”?

    * Vừa mới gần đây, H điện lên cho tôi nhờ tôi “cấp


    cứu” – Kể: “Ở ngoài quê con có 2 đứa con trai ra Quảng Ninh làm mỏ rồi vướng ma túy, chết vì si đa! Người quê đem về chôn ở đầu làng – Tự dưng từ tết đến giờ tháng nào trong làng cũng có người chết trẻ trạc tuổi chúng nó! Thầy xem quẻ bảo bị 2 đứa ấy bắt hồn… Chiều hôm qua con xuất hồn về quê tìm , chúng nó bảo ngày mai nầy bắt em trai của con! Con tức quá bảo: “Tao cắt máu trong tay nhỏ xuống đất làm phép cho chúng mày tiêu hồn xác, hết đầu thai luôn! Rồi con cắt tay cho máu chảy – Con đánh và trói chúng nó lại. Từ lúc đó đến giờ tròn 1 ngày, con đau nhức cả người và nhức đầu, chóng mặt như búa bổ vậy!”

    Tôi trụ thần nhìn, thấy H trói được 2 âm hồn rồi, bèn nhốt vào Kim tự tháp! Quay qua giải phép âm cho H - chút xíu sau, cháu H đã trở lại bình thường…

    Hôm sau nữa, H lên nhà – đưa tay cho tôi xem dấu cắt: trên cánh tay H có 2, 3 vết sướt tựa như dấu lá cỏ, lá lúa sượt qua còn để lại vết tích vậy. Lạ quá! Tôi chẳng biết thực hư ra làm sao… “Người xuất hồn, hành động có thể để lại dấu tích như thực vậy ư!!” Buồn một nỗi, cô cháu nầy vẫn có xu hướng thích dùng tà phép để trấn áp hơn dụng Đức Từ Bi mà Giáo độ sinh linh…

    * Tôi chỉ cho các Chị Em hỏi Điển: khi cần tìm hiểu về một việc gì đó, chỉ cần rửa tay rửa mặt sạch sẽ, mặc đồ dài vô – đứng trước bàn thờ hay Linh vị mà hỏi! Điển sẽ ứng về trả lời bằng nhiều cách: - Cả người xoay vòng nhẹ rồi ngã người ra sau nếu lời đáp là “Đúng”. Nếu “sai” Điển sẽ im lặng!


    Hoặc là gật đầu hay lắc đầu, hoặc đếm số trên ngón tay… đếm chầm chậm đến khi nào đúng số đang hiện diện, ngón tay đếm sẽ tự động dừng lại!

    Với bàn cơ, tôi có thể hỏi nhanh và chính xác hơn, nhưng các chị em khác không lên cơ được, nên tôi hay sử dụng cách nầy – Vì độ chuẩn xác cao và dễ hỏi! Có điều cần phải biết “tùy cơ ứng biến” hỏi cho đúng người, đúng việc! Câu hỏi cần đơn giản tránh hỏi “nước đôi” hoặc dài dòng văn tự…

    Theo trải nghiệm của tôi – người phụ nữ hỏi Điển bằng phương pháp nầy dễ hơn Nam, vì thể vía của người nữ nhẹ hơn, Điển dễ chuyển báo…

    Tôi dùng cách nầy để hỏi mọi người khác cũng tốt, khi người ta tự “gật” hay “lắc đầu” – họ sẽ tin tưởng hơn

    – Bởi những điều liên quan đến thế giới vô hình rất khó kiểm chứng, nhất là ở người có tri thức cao!

    Với cháu H – hai ông Thần Tổ nghiệp cứ chen vào ứng báo, và luôn muốn đảo ngược hoặc làm cho sai lạc sự thực, để chống lại tôi – vì đã dẫn con cháu của họ đi theo con đường mà họ không muốn… Lắm lúc tôi tức điên lên được khi các chị em khác hỏi Điển trả lời giống tôi – mà ở H thì cứ báo nghịch lại! Ngặt nỗi H lại là người tự tin, có khi nghĩ rằng tôi cố tình làm bẽ mặt H không chừng!

    Lần nọ – H tìm lên hỏi Điển về mấy việc quan trọng và cần thiết của mình – Đứng trước bàn thờ nhà tôi, Điển trong H vẫn cứ báo nghịch lại với phần Điển trong tôi – Bực quá tôi điều tra lại, thì ra là hai ông Thần Tổ nghiệp! Tôi truy hỏi nhẹ nhàng, lịch sự… thấy thế 2 ông càng

    lấn tới bảo: “Chính chúng tôi làm cho Điển báo sai! Chúng tôi không muốn cháu H đi theo cô Hai - Yêu cầu cô lên tiếng cấm không cho H lên nhà cô nữa!”. Hèn nào Minh tới chơi, cô H chuyên nói những điều trái ngược với những gì Điển báo tại nhà tôi.

    Tự dưng (như Bề Trên đã sắp xếp) – Minh “lò dò” tới… Đang cơn giận, tôi đánh cho thần Tổ nghiệp 1 trận, 2 tên quỳ xin lỗi tíu tít! Quay qua, tôi lại rầy Minh với H một hơi: “Hai đứa phải biết tự lực đi chứ chuyện gì cũng đợi cô là sao! Người ta đi học Nhân điện tốn biết bao nhiêu tiền, học xong về phải tự mình rèn luyện – Cô dạy các con không tốn đồng nào – 2, 3 năm rồi vẫn chưa buông rời được cứ ỷ lại hoài biết đến bao giờ mới nên… Từ nay tự mà đứng lên đi, đừng có níu cô hoài như vậy! Cô còn bao người, bao việc – đâu có ở không”.

    Tội nghiệp, hai đứa hoảng hồn một phen…

    Mới vừa đây có 1 việc – tôi kể bạn nghe để kết phần chuyện về cô bé Hương nhiễu sự, người đem đến cho tôi nhiều chuyện rắc rối nghịch thường nhất trong nhóm chị em nhân điện!

    Hôm đó H lên nhà tôi kể chuyện mình được Điển về dạy múa hát và nói tiếng Thiên (Là tiếng của Cõi Trên) – Nghe thế tôi gọi thêm vài cháu ở gần để tìm hiểu về chuyện nầy…

    Phần căn của H nhập về, bảo với tôi là hiện đang theo Mẹ tu tập trên núi! Tôi hỏi có gặp bà Sư phụ hay không thì cô ấy bảo thỉnh thoảng cô có sang thăm SP tu ở gần chỗ cô. H múa hát còn ngượng ngập – có lẽ do về


    xác chưa quen, được một lúc thì SP H tới – Tôi nghe nói bà đi tu thì mừng, vội mời vào nhà… Bà ta quỳ lạy bàn thờ Mẹ xong chợt quay lại, hai mắt lóe lên, định thừa cơ đánh lén tôi!

    Tôi giận quá, trói cứng lại nhốt vào Kim tự tháp. Quay lại, thấy Mẹ Diêu Trì đã về tự lúc nào, Mẹ bảo: “Cất một mẻ lưới, bắt được con cá lớn”… Thì ra Mẹ đã bày cho phần căn H nói là Sư phụ của mình đi tu – để bà ta ngỡ mọi người tin như vậy – mới lần mò về ra mặt, sau hơn một năm trốn biệt, thỉnh thoảng về phá H một trận rồi đi… “Nó tưởng lừa được ta, nào ngờ con Lan giỏi!” – Tôi giải giao cho Mẹ – Mẹ đánh cho một đòn, xác tan thành tro bụi bay lả tả…

    Thật đáng thương! Nếu biết cãi hối thì có đâu phải tội tiêu hồn! Suốt 23 năm nay, đây là lần thứ hai tôi thấy Bề Trên triệt vong… Lòng Từ Bi Đại Đạo chỉ dốc sức cứu đời – kẻ thủ ác đã 5 lần 7 lượt Ơn Trên cho cơ hội cải tà quy chánh không nghe, giờ dẫu dày công tu luyện cũng hoài! Giống tích Tề Thiên Đại Thánh ngày xưa – quậy nát càn khôn tưởng mình giỏi tuyệt, nào ngờ bôn ba bốn biển chẳng qua được ngón tay Phật Tổ Thích Ca!

    Chuyện về cô H chắc đã làm bạn đọc phát chán rồi.

    Chúng ta sang đề chương khác vậy nhé!


    SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC PHẦN LINH ĐIỂN LIÊN ĐỚI (1)


    Quan Thánh Đế (1): Con trai thứ hai của tôi, thằng bé tuổi Bính Dần! Lúc nhỏ mấy lần chết đi sống lại. Có lần leo lên cây điều té từ trên cao xuống nằm xỉu 1 lát sau mới tỉnh lại, người không có xây xát gì – Có lần nọ leo lên trần nhà, té từ độ cao 2 mét xuống, cũng ngất xỉu 5 phút rồi tỉnh lại bình thường – Có lần té đập đầu vào cạnh bàn ngất đi, 10 phút sau tỉnh dậy, bảo: “Nãy giờ sợ Mẹ rầy nên con giả ngủ!”. Thuở nhỏ nghịch ngợm hết biết, chuyên leo lên nóc nhà, rồi lần đi theo gờ tường, y như người học làm xiếc – Người ta học xiếc có phương tiện bảo trợ – Còn Ti làm xiếc… trốn cả Mẹ sợ bị đòn!

    Lần nào nghe ai đó kể lại tôi cũng “hồn phi phách tán”… Sau khi học nhân điện, thỉnh thoảng lúc thiền để nhận năng lượng Ti hay thấy có 1 mũi tên màu đỏ như lửa xuyên vào đỉnh đầu đau buốt, sau đó năng lượng đổ về rất mạnh!...

    Đến một ngày – Linh căn Thầy của Ti xuất hiện. Út Thảo (em tôi) đang ngồi bàn cơ, thấy có người về xưng là Quan Thánh Đế! Ngài bảo phần Linh căn của Ti là “đệ tử ruột” của mình. Nghe vậy, tôi mời về để xin tiếp xúc – Người xưng: “ta là Quan Thánh Đế, hiệu là Thể Quán Thiền Sư!”. Tôi hỏi thì ngài bảo mình không phải là Quan Công, Quan Thánh Đế là 1 chức danh của nhiều người, chỉ có Quan Công hiệu riêng gọi là Quan Thánh Đế Quân!


    Thầy của Ti mặt đỏ, râu rìa hàm én mài ngài, mặc đồ võ phục cũng màu đỏ – Người nóng nảy, nghiêm trang và khắc nghiệt! Ông vói với Ti là mình không thích tiếp xúc với đàn bà, con gái, và không thích lui tới cửa Thiền

    – Mới đầu tới nhà tôi đứng ngoài sân, quay mặt ra đường mà nói vọng vào, về sau cũng nhất định không bước qua ngưỡng cửa…

    Sau tôi mới hiểu: đa số các vị Thần đều có tính nóng nảy và hiếu chiến, có người nghênh ngang coi trời bằng vung – Tuy nhiên cũng có nhiều người rất mực tế nhị, khiêm cung và hòa nhã…

    Ngài Thánh Đế thương đệ tử của mình lắm, nhưng không ưa cho nó uống rượu – Mỗi khi Ti làm điều gì không hợp ý, thầy giận trò rất lâu… Có điều Thầy nương cho tính tự cao tự đại của Ti, làm cho tôi cũng bực mình không ít!

    Phần âm nào phá phách, Ti đánh cho bò lê bò càng

    – Đến khi chúng hăm he là sẽ trả thù, Ti sợ chạy về mách Mẹ kêu cứu…

    Có lần thích “chơi trội”, thằng bé bắt về nhà một lô lốc – toàn ngạ quỷ với yêu tinh, tối để đi lang thang trong nhà chơi! Nửa đêm, vía tôi thấy mình về nhà dưới kiểm tra, gặp 6, 7 phần âm… Kêu Ti về hỏi, cháu nói: “Con đem về tối đưa ra nói chuyện, khuyên chừng nào họ chuyển tâm thì đưa vô chùa tu”. Tôi phân tích cho cháu nghe: “Muốn phần âm biết tu, trước tiên con phải cho họ ăn uống để lấy lòng tin – rồi giảng đạo, tụng kinh cho họ nghe! Con không ăn cơm nhà dưới đó, không thờ Phật, lại


    không Kinh kệ. Con khuyến Đạo họ bằng gì?”

    Lần đó, tôi phải đưa 7 phần âm nhốt vào Kim tự tháp đem về nhà trên nầy. Thường các âm vong hung hãn, quậy phá mọi người tôi bắt nhốt vào KTT – Ngày 3 bữa cho ăn no, tối cho nghe Kinh. Mỗi tháng tôi trả tự do cho họ 1 lần vào ngày rằm, cung cấp lộc thực, án hình chữ Vạn vào giữa trán rồi cho họ đi! Tôi nói: “Những người được án phép Nhà Phật mỗi tháng được trở lại đây lãnh lộc thực 1 lần, và phải biết tu tâm, dưỡng tánh – Nếu ai còn phá khuấy người khác, hình chữ Vạn nầy sẽ làm cho đau đớn kinh khủng lắm đó!”

    Bao nhiêu năm nay, tôi chưa thấy những phần âm vong nầy phạm tội thêm lần nữa, có nhiều tên còn năn nỉ tôi cho ở lại trong KTT vì được no đủ, ấm áp – chỉ tội là bị giam lỏng thôi!

    Có lần Ti đem KTT của mình về bảo tôi: “Con bắt trong nầy mấy đứa, tối nó quậy con sợ quá. Mẹ thu qua KTT của Mẹ dùm con, cẩn thận nó sổng ra chắc nó giết con chết quá!” – Tôi nghĩ thầm: chắc cũng húng hiếp, khảo tra người ta dữ lắm, bây giờ mới sợ bị trả thù… Tôi rầy mắng cháu một hồi, khuyên: “Điều thiện, lòng từ ái và bao dung mới khuất phục được người! Sức mạnh chỉ làm sinh lòng căm phẫn và ý chí phản kháng, trả thù mà thôi! Mẹ làm việc nầy hăm mấy năm nay, các phần đều tâm phục, khẩu phục – Con thấy có ai thù ghét Mẹ không?”

    Thầy của Ti không ưa tôi, vì tôi là phụ nữ và là người nhà Phật! Tôi thì phải phục lụy thầy vì là Sư phụ


    của con trai mình, cháu an nguy cũng nhờ tay thầy ân cứu… Trước ông tôi luôn phải xuống giọng năn nỉ – Còn ông thì lên giọng “ta đây”, lắm lúc tôi ức lắm mà phải nhịn chịu! Có lần tôi giải bùa cho cháu mà không xin phép thầy, giải xong đầu tôi quay mòng mòng, đi xiểng liểng hơn cả người say rượu – gần cả tiếng đồng hồ sau mới tỉnh… Tôi cũng chẳng dám trách cứ gì ông, phải là người khác, tôi “còn lâu mới chịu thua!”

    Quan Thánh Đế (2):

    Minh (học viên Nhân điện của tôi) – Một hôm tới nhà, tôi thấy theo sau là 1 ông mặc đồ đỏ giống như Thầy của Ti. Người ấy đứng ngoài đường nhìn vào nhà – Tôi mời “nhập gia”, nhìn kỹ hóa ra không phải: Thầy của Ti ốm mà cao, người nầy cao to, vạm vỡ – vai u thịt bắp – có điều giống nhau là bộ võ phục màu đỏ!

    Tôi hỏi – ông ấy bảo mình là thầy của cháu M và cũng là Quan Thánh Đế! Mới lần đầu gặp, ông ấy nói chuyện cũng lịch sự, bảo ý muốn vào tiếp xúc làm bạn với tôi – Tôi khéo léo từ chối, vì nhớ chuyện đã từng biết rất nhiều vụ về những ông Thần về “tà dâm” với đàn bà cõi thế…

    Thầy của Minh kiên nhẫn đến nhà tôi mấy đêm liền… Đến ngày rằm, tôi cúng cơm chay – Minh ra nhà không chịu tiếp xúc với ai, cứ ngồi đó, thỉnh thoảng lại cười nhạt 1 tiếng – Đầu cổ mặt mũi đỏ lựng… Biết ý, tôi bảo chị em không động chạm gì tới, để cho ngồi yên đó một mình!

    Cúng cơm xong, tôi lịch sự mời ông Quan ăn cơm,


    ông ấy bảo: “Tôi không biết ăn chay!” Đến lúc ngồi vào ăn, Minh cứ cầm chén cơm đôi đũa dầm dầm mãi không ăn, tôi rầy thì M cất tiếng nói: “Nể cô Hai lắm tôi mới ăn cơm chay đó cô Hai” Rồi lại xuống giọng thuyết phục tôi cho ông về với tôi làm “bạn”! Tôi cắt cớ bảo: “Tôi có người chủ quản. Nếu ông xin phép họ được tôi sẽ đồng ý. Tôi chỉ ông chỗ đến xin nhé! Oâng lên Thiên Đình gặp ngài Ngọc Đế, Ngài xuống chỉ cho ông liền, hễ có Lệnh bài là tôi bằng lòng.” _ thoắt cái vía tôi thấy ông đứng trên mây thật cao cung tay trước mặt chờ xin – Thấy ông đứng hoài đó tôi biết ông không nhập vào Thiên Đình được! Bèn gọi ông về hỏi, ông ấy bảo: “Tôi chưa xin phép tiếp kiến được”…

    Về sau, có lần ông nói năng ngang ngược, tôi nổi điên đánh cho một trận, từ ấy tới nay mất mặt - không hề thấy tới nữa, cũng không theo cháu M…

    Bản thân tôi tế nhị, lịch sự và tôn trọng tất cả mọi người, mọi giới – Tôi chỉ phản kháng khi nào bị xúc phạm – và khi tôi đánh, tôi chả thua ai bao giờ, có lẽ “Điển ông” trợ cho tôi đấy thôi! Nghe nhiều người kể lại những vị thầy bùa, thầy pháp yếu cơ bị đánh nôn ra máu hoặc bò lết, loạn thần là chuyện thường… phần tôi, nặng lắm là tối tăm mài mặt, nôn nao một chút rồi hết.

    Cô Tiến (học viên nhân điện) – Một hôm đang ngồi Thiền để nhận điện, thấy một phần Linh căn về. Nhìn giống như Quán Âm Bồ Tát – thấy người đứng trước mặt thấp thoáng, hỏi Điển thì Điển ứng báo không phải là Quán Âm Bồ Tát! Vì không tiếp xúc được, Tiến qua nhờ


    tôi – phần Linh căn về, ăn vận như Bồ tát nhưng nhìn khuôn mặt thì không phải – Người xưng danh là Nam Hải Liên Hoa Phật, bảo phần Linh căn của T là đệ tử của Nam Hải – nên người về trợ mệnh trần, Người dặn là khi nào gặp hoạn nạn kêu xin danh tính Nam Hải Liên Hoa, người về cứu cho…

    Về sau – Mẹ Nam Hải đã ứng ban cho tôi bài thơ “Hoàn ngôi” – (tôi đã chép tặng các bạn vào đoạn trước).

    Linh Điển Trì Địa Bồ Tát: cô Lan (học viên nhân điện) – Thời gian từ lúc học xong lớp 10, Ơn Trên xoay chuyển cho L liên tục đưa các phần vong về chỗ tôi để nhờ ứng cứu! Đúng như lời Mẹ nói: “phần hành nào đưa về cửa ấy!” Khi vong kéo về bên cô Lan – họ sẽ cho phép tà thúc giục làm cho L nôn nao, thể nào cũng phải tìm xuống tôi, chưa đi được thì đầu óc cứ bấn loạn cả lên!

    Mỗi lần xuống, tôi lại gọi từng phần ra xử y như xử án – ai giúp được gì thì giúp, kẻ nào hung hăng trói nghiến nhốt lại 1 thời gian, cho nghe Kinh kệ cho thuần tính lại rồi phân phối lộc thực cho đi…

    Cõi âm cũng như cõi dương trần! Có nhiều phần bị hà hiếp, oan ức… tìm cách kéo tới nhà tôi kêu oan, và tôi lại phải “xử lý” y hệt như “quan Huyện đăng đường”… Cần phải thật cẩn trọng, sáng suốt và nghiêm minh! Không được xử ép, xử oan người vô tội – Lắm lúc tôi muốn điên cả đầu khi phải tập trung thần lực để “tra án”! khi xong việc – tôi cứ như 1 quả bóng bị xì hơi, mệt lử – hơn cả người lao động tay chân… Có khi leo lên giường nằm mê mê cả buổi!


    Có lần cô Lan tự nhiên bị nôn ói – Liên tục mấy tiếng đồng hồ. Điện cho tôi mãi mà không được (lúc đó tôi đi vắng) – Đến chiều về L điện báo cho tôi biết chuyện… Tôi ứng nhìn thấy 2 vong yêu tinh đàn ông áng vào, và hiện chúng đang ở sau sàn nước nhà cô L – dưới gốc cây khế!

    Tôi vừa báo cho L biết, đã thấy hai vong tới đứng bên cửa sổ rồi – Tôi tiếp xúc với họ, vừa năn nỉ vừa khéo léo “hù dọa”: “Cô L là học trò của tôi, cô L gặp nguy tôi không thể bỏ, nếu tôi trình việc nầy về trên, Bề trên sẽ cho người về hành xử, các vị đâu được bình an! Chi bằng xin cho cô L dâng lễ cầu an, 2 vị nhận rồi ra đi cho đẹp cả đôi đàng…” Hai vong ấy bằng lòng, đòi lễ vật là 1 con mèo đen đập chết đem cúng. Tôi bảo: “Không, chúng tôi là người tu học Phật pháp không được phép sát sinh!” Năn nỉ chốc nữa, hắn bằng lòng cúng 2 con cá lóc luộc chín (để nguyên con, không đánh vảy – làm sạch nhớt rồi luộc) – Đôi bên thỏa thuận ngày 13 giờ Ngọ sẽ cúng…

    Tối hôm sau, L nằm mơ thấy 1 người phụ nữ trung niên mặc đồ bà ba về bảo: “Ta là Bồ Tát, để ta về giải hoạn nạn cho con nghe!”

    Cô L xuống nhà tôi ngày 12 âm lịch – Vừa tới có 10 phút, tôi thấy 1 vị bước vào nhà, ăn vận y như Quán Âm Bồ Tát, nhưng nhìn kỹ tôi thấy không phải Mẹ Quan Âm, và người nầy nhân dáng rất cao, phải chừng 1m80 (PB chỉ cao 1m60 là cùng!)

    Tôi xin phép hỏi danh tính, Người bảo: “Ta là Trì Địa Bồ Tát” – Nghe vậy, tôi cung kính nói “Con chào


    Mẹ”. Vị Bồ Tát ấy phì cười, bảo “Trì Địa là đàn ông”. Xong – Người bảo phần Linh căn của cô Lan là đệ tử của Người, nay gặp nạn lớn Người ra mặt ứng cứu: “2 tên đó là con yêu râu xanh, thấy con có năng lực cao chúng nó “hợp đồng tác chiến” – phép đã nhập vào người con được rồi.

    Đây là kiếp nạn lớn trong đời con đó! Ta cũng không thể cứu con ngay tức thì – Chỉ khi thành án mới xử được… Ta dặn con: nếu thấy có gì bất thường, ngay lập tức gọi cho cô Hai đây ứng cứu. Nếu gọi không được thì thắp 3 cây nhang ra đứng giữa trời xin danh tính Trì Địa Bồ Tát, ta về cứu cho con”!

    Nói xong, Người ra đi – hai con yêu tinh lại tới (thì ra chúng đã theo cô Lan và nghe thấy cả mọi chuyện) – Tôi bảo: “Các người muốn kiếm chuyện nữa sao. Hôm nay là ngày 12, trưa mai mới tới ngày cúng – Muốn đòi hỏi gì nữa đây!” Nào ngờ hai vong nọ cung tay chào rồi nói: “Chúng tôi chỉ tới chào cô Hai rồi đi, chúng tôi sẽ rời đi ngay tức thì và không bao giờ trở lại, chúng tôi không nhận lễ cúng – và xin hãy tha mạng cho chúng tôi”. Chỉ có thế rồi họ đi mất, chị em chúng tôi vui mừng không kể xiết…

    Sau nầy nghiệm lại: Đúng là Mẹ Bề trên đã xoay chuyển cho các phần Linh căn tìm về chỗ tôi – để (theo lời Mẹ nói) “Thụ Điển”, rèn luyện năng lực, rồi trở về chỗ mình ở nhà hành Thiện trợ đời!

    Tôi cũng thấy mình không giống ai: Các phần Linh căn lớn thường thích quy tụ đệ tử hoặc tín đạo thành lập


    Đạo Tràng để Hoằng pháp. Riêng bản thân tôi lại chỉ thích thanh tịnh, sống 1 mình lặng lẽ – không ưa giao tiếp bạn bè, nói đúng hơn là không muốn tiếp xúc với ai, tối ngày chỉ ra vào trong nhà, và chỉ có bệnh nhân là tới gặp tôi dễ mà thôi… ma chay, cưới hỏi, đám tiệc xa gần tôi cũng gửi phong bì đến chúc rồi trốn biệt.

    * Chị Th (học trò nhân điện) – là vợ của anh Th – xưa nguyên là Tiểu đoàn trưởng, bị đạn chấn thương cột sống, về sau đau nhức suốt và teo hai chi dưới… Bác sĩ Cự chữa mãi không được, giới thiệu vào tôi – và tôi… cũng thua! (Việc nầy tôi sẽ kể chi tiết sau). Chị Th theo học nhân điện đã đến lớp 13, năng lực cảm ứng bản thân rất nhạy! Một hôm nhân ngày chủ nhật, chị vào nhà tôi để nhận điện (thường các học viên tập trung lại nhà tôi nhận điện thì cảm ứng mạnh hơn tự nhận ở nhà).

    Lúc đó, Kh cũng là học viên đến nhận điện, Kh vừa tới, bước vô nhà – tôi thấy phần Linh căn của Kh là Ngũ Cô Nương của Thập Điện Diêm La cung cũng tới, bước vào nhà cung tay chào tôi 1 cái rồi nói “Tôi tới lạy chào Mẫu Mẹ” – Rồi phục xuống quỳ lạy chị Th 1 lạy! Tôi hỏi, Ngũ cô nương đáp: “Linh căn của cốc chủ đây là Mẫu Mẹ ngự ở Hậu cung của Thập Điện Diêm La – Tôi đi về vẫn thường đến chào Mẹ!”

    Một thời gian sau – Trong lúc chồng chị Th bị hành bệnh đau đớn kinh khủng, không có cách nào cầm được, chị Th vào nhà tôi thắp hương xin Mẹ giải cứu! Đột nhiên tôi nhìn thấy 1 vị người quắc thước phương phi, tráng kiện, ăn vận toàn 1 màu đen – Vị ấy bước vào tới cửa thì


    đứng lại bên ngoài, tôi hỏi – Người ấy xưng danh tính: “Ta – Cung chủ của Thập Điện Diêm La cung!”. Tôi ngạc nhiên, hỏi lại! Người ấy bảo: “Ta đã nói rồi đấy thôi, ta là Cung chủ của Thập Điện.” – “Xin Người cho biết Người đến đây dạy bảo con điều gì?” – “Không! Ta chỉ xin cô cho tiếp xúc với Bà đây!”… Rồi vị ấy quay sang nói với chị Th: “Phần Linh căn của Bà vốn là Lệnh Mẫu của Thập Điện, có chút duyên với Ta nên Ta về trợ cứu cho một phen! Vốn ông nhà gieo nhiều nghiệp chướng, cuối đời bị vong hồn chiến sĩ quậy, không ai có thể cứu được. Chiều nay bà cúng cho Ta 1 đĩa Tam Sên, 2 nước 2 rượu – cúng trên bàn ở giữa nhà khách khấn xin đích danh Ta: “Cung chủ của Thập Điện Diêm La cung!” – Ta sẽ về trợ cho ông nhà đỡ đau đớn”…

    Chị Th làm y lời – quả nhiên chồng chị nhẹ bớt bệnh

    – Một thời gian sau lại tái y như cũ!

    * Cô Kh (học viên nhân điện – Người ngày trước bị vong thần cọp khuấy mà tôi đã kể). Trong 1 lần tới nhà tôi vào ngày rằm – Tôi thấy xuất hiện 1 cô gái người mảnh mai – mặc bộ đồ bằng lụa màu đen thắt đai ngang eo. Cô gái ấy bước vào nhà xưng danh là “Ngũ cô nương ở Thập Diện Diêm La cung” – (Linh căn chính của cô Kh) người làm nhiệm vụ chiêu tập vong hồn!...

    Tôi chú ý nhìn: người thì bé nhỏ, mảnh mai nhưng giọng nói đanh thép, nghiêm lạnh không có tình cảm. Hai con mắt nhỏ – đuôi dài, ánh nhìn sắc sảo mà lạnh lẽo… Đúng là nhìn vào cô ấy có thể thấy cả Diêm cung!

    Từ dạo ấy trở đi, Kh hay bị hành xác – đủ kiểu, đủ


    chứng… Mỗi lần như vậy, Kh chạy lên tôi – và tôi lại mời Ngũ cô nương về năn nỉ xin tha! Một thời gian sau thì “tạm ổn” – Khi cô Kh có hoạn nạn cầu cứu, Ngũ cô nương lại về ứng cứu…

    Cô nương ấy chẳng bao giờ nói thừa hay thiếu 1 câu, với chất giọng đều đều, lạnh lẽo không hồn – chắc là phải cứng rắn như vậy thì mới làm được công việc đáng sợ của Thập Điện! Có lần Kh bị hành nhức đầu kinh khủng, lên nhà tôi khóc sụt sùi, Ngũ cô nương về bảo: “Đừng có khóc lóc với tôi, tôi không có động tâm đâu”…

    Với những phần Linh căn thì tôi thua, tôi chỉ biết xuống giọng “năn nỉ ỉ ôi”, chứ chẳng làm gì được họ – vì họ về xác trần hợp pháp – có “lệnh bài”… cùng lắm thì tôi cầu xin Mẹ Bề trên về can thiệp giúp, từ từ rồi cũng ổn!

    Trong thời gian đầu tiên mới giác ngộ bước vào đường đạo, xem như bắt đầu hành trình “tu tập” – ai cũng bị dồn nghiệp, hoạn nạn tai ách dồn dập, đến “Thất điên bát đảo” chứ chẳng nhẹ nhàng – Và tôi phải có trách nhiệm dìu đỡ từng người một cho đến lúc mọi chuyện qua đi và cuộc sống của chị em hoàn toàn trở lại bình thường mới thôi!

    Hoạn nạn đến từ nhiều phía: cả đời sống thực lẫn âm phần – Ai cũng bị “khảo đảo” nặng nề trong khoảng chừng 2 năm thì bắt đầu bình ổn trở lại, nếu vẫn còn kiên tâm vững bước, vững lòng tin thì năng lực càng ngày càng cao! Bằng như ngã lòng, thối chí thì bỏ mất đường Đạo – Đã có 8 người học Nhân điện từ nhà tôi không chịu nỗi sự “khảo đảo” – buông tay chịu thua – dần dần các luân xa


    đóng lại như cũ… Tiếc cho bao nhiêu công sức rồi mai một mất!

    Ngày trước, khi mới bắt đầu tìm hiểu về Nhân điện; qua lời Thầy giảng tôi mới biết: Những “hành giả Nhân điện” (theo lời Thầy) như chúng ta là những người đã có căn tu từ nhiều kiếp, đến nay mới được mở luân xa, phát triển con mắt tâm linh dễ dàng như vậy! Những người thiểu căn thường không có điều kiện học lên lớp cao, hay bỏ giở nửa chừng… Thầy nói: thường độ chừng 15 người học Nhân điện chỉ có 1 người có khả năng làm Thầy chữa bệnh cho mọi người, số còn lại chỉ chữa được cho chính mình và gia đình mà thôi…

    Bản thân tôi hỗ trợ cho 30 người học nhân điện – nói vui là “từ A… tới Z”! trong đó có 11 người giỏi, phát triển cao về tâm linh – Khả năng đó quả thực nhờ ân phúc của Bề trên!


    MỤC LỤC

    Thay lời Tựa 3

    Chủng tử Phật 6

    Dẫn nhập Huyền Môn Lược Ký 10

    1/ Chuyển sắc lệnh 14

    2/ Thụ Điển 20

    3/ Rửa xác (1) 22

    4/ Thực hành cụ thể (1) 25

    5/ Liêu trai Tân Thời – Sự xuất hiện của Linh căn I 38

    6/ Linh căn II 37

    7/ Linh căn III 40

    8/ Thực hành cụ thể (2) 43

    9/ Nghiệp thế trả vay (1) 51

    10/ Liêu trai Tân Thời (2) 54

    11/ Rửa xác (2) 61

    12/ Thực hành cụ thể (3) 66

    13/ Liêu trai (3) 70

    14/ Sự xuất hiện của các Tinh chủ y thuật 78

    15/ Thơ văn khuyến đạo 92

    16/ Liêu trai (4) 99

    17/ Nghiệp thế trả vay (2) 111

    18/ Thơ văn khuyến đạo (2) 123>


    19/ Linh căn chủ xác 127

    20/ Thơ văn khuyến đạo (3) 133

    21 Nguồn trợ duyên mới + thực hành cụ thể (4) 140

    22/ Nghiệp thế trả vay (3) 146

    23/ Liêu trai (5) 152

    24/ Thực hành cụ thể (4) 158

    25/ Nguồn ân cứu mới 167

    26/ Thực hành cụ thể (5) 172

    27/ Liêu trai (6) 184

    28/ Nghiệp thế trả vay (4) 190

    29/ Thực hành cụ thể (6) 207

    30/ Liêu trai (7) 223

    31/ Mặt trái của tấm Huân chương 231

    32/ Thực hành cụ thể (7) 243

    33/ Nghiệp thế trả vay (5) 255

    34/ Thực hành cụ thể (8) 266

    35/ Sự xuất hiện của các phần Linh Điển liên đới (1) 284






    Môøi caùc baïn ñoùn xem

    HUYỀN MÔN LƯỢC KÝ

    Taäp 2 vaø 3

    * Veùn maøn Voâ Minh ñöa theá giôùi cuûa

    Boùng toái ra Aùnh saùng.

    * Caùi baét tay thaân thieän: Baïn – Toâi Thoâng hieåu laãn nhau, quan taâm lôïi ích chung, cuøng toàn taïi vaø phaùt trieån

    * Ñuùc keát nhöõng quy luaät baát thaønh vaên veà moái giao tieáp öùng xöû giöõa caùc coõi

    Voâ hình vaø höõu hình

    * Phöông phaùp haønh leã, thöôïng trang thôø cuùng moät caùch khoa hoïc, ít toán keùm vaø ñaït keát quaû cao nhaát. Giöõ gìn thuaàn phong myõ tuïc, traùnh meâ tín dò ñoan.

    * Hình aûnh vaø buùt tích cuûa caùc beänh nhaân xaùc nhaän.

    * Buùt tích vaø vaên töï cuûa Thaày:

    Haûi Thöôïng Laõn OÂng Leâ Höõu Traùc

    HMLK















    Taùc phaåm Huyeàn Moân Löôïc Kyù I ra ñôøi ñöôïc laø nhôø söï giuùp ñôõ veà taøi chính cuûa ngheä só dieãn ngaâm Moäng Trinh.


    Xin chaân thaønh caùm ôn





    Sách nầy in tặng - không bán! Để cúng dường công đức…


    Với tấm lòng Hoằng pháp, Độ sanh. Kính xin trọn vẹn Công đức quy về cho Bách tín Vạn dân để tăng trưởng Phước điền, cầu cho Trăm Họ được Hòa bình, An lạc…
     

Chia sẻ trang này